Liên kết website

Thống kê truy cập

Giới thiệu

Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Đồng Văn (phần 2)

20/09/2019 00:00 58 lượt xem

TTTĐT: Thị trấn Đồng Văn được thành lập năm 2009 trên cơ sở xã Đồng Văn theo Nghị định số 11/NĐ-CP, ngày 31/3/2009 của Chính phủ; đơn vị hành chính năm 2015 của thị trấn gồm 22 thôn, tổ dân phố (7 tổ dân phố, 15 thôn, trong đó 3 thôn giáp biên giới: Mã Tìa, Mã Pắng, Thiên Hương), dân số có 6.555 người và 17 dân tộc anh em cùng chung sống. Đồng Văn là thị trấn biên giới, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của huyện Đồng Văn và Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn.

 

Phần hai

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG (1945-2015)

 

I. NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ ĐỒNG VĂN TRONG CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954)

Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác-Lênin được đồng chí Nguyễn Ái Quốc và các tổ chức cách mạng truyền bá vào trong nước dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam. Ngày 19/5/1941 Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) với sứ mệnh là tổ chức, tập hợp rộng rãi các lực lượng quần chúng để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, phong trào đấu tranh cách mạng cả nước phát triển ngày càng mạnh mẽ. Tại Hà Giang, do điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh miền núi có nhiều khó khăn, nên phong trào cách mạng phát triển muộn hơn. Từ năm 1939 phong trào cách mạng ở Hà Giang mới được nhen nhóm gây dựng và từ năm 1943 phát triển mạnh. Tại châu Đồng Văn, tháng 5/1944 một số cán bộ Việt Minh đã tới khu vực Nhiêu Lai, Nam Lai, nơi giáp ranh 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà Giang để củng cố cơ sở cách mạng đã gây dựng từ năm 1943 và chuẩn bị phát triển cơ sở cách mạng vào các xã thuộc châu Đồng Văn và châu Vị Xuyên. Tháng 6 năm 1944 cơ sở cách mạng được xây dựng ở các xã Phiên Luông, Ngọc Long. Tháng 7 năm 1945 cơ sở cách mạng phát triển tới các xã Du Già, Đường Thượng, Ngam La. Sau đó phát triển tới các xã Thái An, Đông Hà, Nghĩa Thuận (Quản Bạ). Đồng bào các dân tộc được tuyên truyền chủ trương đánh Tây, đuổi Nhật của Mặt trận Việt Minh. Cán bộ Việt Minh đi tới đâu cũng nhận được sự đồng tình ủng hộ của đồng bào các dân tộc, ở nhiều thôn, bản, đồng bào tổ chức ăn thề quyết tâm theo cách mạng, Ban Việt Minh ở các xóm, xã được thành lập, quần chúng được tổ chức vào các đoàn thể Việt Minh.  

Ngày 15/9/1944 tại Nam Lai, Hội nghị cán bộ Việt Minh các xã Ngọc Long, Du Già, Đường Thượng, Ngâm La, Mậu Duệ đã họp để thành lập Ban Việt Minh tổng Đường Thượng (còn gọi là khu Đường Thượng) gồm 5 thành viên do ông Lò Vạn Quả (dân tộc Mông, ở Đường Thượng) làm Chủ tịch. Nhiệm vụ của Ban Việt Minh tổng Đường Thượng là vận động đồng bào các dân tộc tham gia phong trào Việt Minh, tổ chức các đoàn thể cứu quốc như Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc. Một đội du kích tự vệ gồm 14 người được thành lập làm nòng cốt cho việc bảo vệ và phát triển phong trào cách mạng.

Tới cuối năm 1944 phong trào cách mạng ở Đường Thượng lan rộng ra khắp các xã thuộc khu Đông Minh. Chính quyền địch ở tổng Đường Thượng do Bang tá Đèo Văn Ất cầm đầu mất tác dụng, các tổng giáp, mã phài ở các xã đều mang triện về nộp cho Việt Minh. Trên thực tế Ủy ban Việt Minh đã trở thành chính quyền cách mạng của nhân dân, trực tiếp giải quyết các công việc liên quan đến đời sống kinh tế xã hội của nhân dân. Tháng 7 năm 1945 Ủy ban Hành chính lâm thời khu Đông Minh được thành lập gồm 4 thành viên do ông Nguyễn Doãn Quí làm Chủ tịch, ông Minh Hùng phụ trách quân sự. 1 Trung đội du kích tập trung gồm 30 người được thành lập. Cơ sở cách mạng ở tổng Đường Thượng là cơ sở cách mạng đầu tiên có tác dụng thúc đẩy phát triển phong trào cách mạng ở 4 huyện miền núi phía Bắc Hà Giang sau này.

Đầu năm 1945 chiến tranh thế giới thứ 2 đã bước vào giai đoạn cuối. Những chiến thắng to lớn, dồn dập của phe Đồng minh, chủ yếu là Hồng quân Liên Xô đã tác động mạnh tới tình hình Đông Dương, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày 9/3/1945 phát xít Nhật đảo chính, hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương. Tại Hà Giang, phát xít Nhật nhanh chóng nắm và củng cố lại chính quyền tay sai ở địa phương. Quân Nhật liên tiếp mở các cuộc hành quân đi cướp bóc các nơi trong tỉnh. Tới giữa năm 1945, lực lượng cách mạng ở Hà Giang đã phát triển ở hầu hết các xã thuộc châu Vị Xuyên, Bắc Quang và các tiểu khu Bắc Mê, Quản Bạ, Yên Minh với 2/3 diện tích toàn tỉnh và hàng vạn quần chúng được giác ngộ cách mạng. Trên địa bàn châu Đồng Văn, cơ sở cách mạng phát triển mạnh ở các tiểu khu Đông Minh, Quản Bạ, còn ở Đồng Văn và Mèo Vạc do Thổ ty phong kiến tăng cường kiểm soát nên các cán bộ Việt Minh chưa tổ chức xây dựng được cơ sở cách mạng.

Tháng 8 năm 1945 chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, nhân lúc phát xít Nhật và bọn tay sai đang hoang mang cực độ, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nổi dậy tổng khởi nghĩa và giành thắng lợi trên phạm vi cả nước. Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà do tuyên bố nước nhà độc lập trước quốc dân và thế giới. Từ đây, cách mạng nước ta bước sang một kỷ nguyên mới, độc lập dân tộc dân chủ và đi lên CNXH. Sự kiện trọng đại ấy đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng ở Hà Giang tiến nhanh vào giai đoạn đấu tranh giành chính quyền toàn tỉnh. Đi đôi với các biện pháp tranh thủ thuyết phục lôi kéo về chính trị, kết hợp với dùng áp lực quân sự, ta giải phóng châu Bắc Quang ngày 5/11/1945, châu Hoàng Su Phì ngày 15/11/1945, tiểu khu Quản Bạ (châu Vị Xuyên) và tiểu khu Yên Minh (châu Đồng Văn) ngày 21/11/1945; thị xã Hà Giang ngày 8/12/1/45… cuộc đấu tranh giành chính quyền cách mạng trong toàn tỉnh cơ bản hoàn thành thắng lợi.

Tại châu Đồng Văn, do thế lực Thổ ty, Bang tá, Tổng giáp, Mã phài còn mạnh, nên ta vẫn duy trì chế độ Thổ ty đồng thời đẩy mạnh vận động tuyên truyền cách mạng trong vùng Thổ ty. Đối với Vương Chí Sình, một Bang tá lớn có thế lực trong đồng bào Mông ở Đồng Văn, cán bộ Việt Minh đã tiếp cận, tuyên truyền chủ trương chính sách của Mặt trận Việt Minh, vận động ông ủng hộ Việt Minh, tạo điều kiện để ông về Hà Nội gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã giao cho Vương Chí Sình làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện Đồng Văn. Như vậy, ở Đồng Văn nói chung, xã Đồng Văn nói riêng không có cuộc đấu tranh giành chính quyền như các nơi khác, mà trên thực tế ta tạm thời thừa nhận chính quyền của Thổ ty với danh nghĩa “Ủy ban Hành chính” để từng bước cải tạo chính quyền của Thổ ty thành chính quyền cách mạng.

Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, chính quyền nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ đã sớm phải đương đầu với những khó khăn thử thách tưởng chừng không thể vượt qua. Những tàn dư xã hội cũ, hậu quả của gần một thế kỷ dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến trở thành một thách thức đối với dân tộc ta. Đất nước ta vừa ra đời đã đứng trước những khó khăn thử thách nghiêm trọng: Nạn đói, nạn mù chữ, thiên tai, địch họa. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng lấy danh nghĩa Đồng Minh giải giáp quân đội Nhật tràn vào miền Bắc nước ta, bọn phản động tay sai núp bóng bám theo. Ở miền Nam, quân đội Anh kéo vào, theo sau chúng là một số đơn vị quân đội Pháp. Ngày 23/9/1945 thực dân Pháp gây chiến ở Sài Gòn mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.

Trước tình hình đó, ngày 25/11/1945 Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, xác định kẻ thù chính của nhân dân ta lúc ngày là thực dân Pháp xâm lăng. Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, các cấp chính quyền ở khu Yên Minh đẩy mạnh tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ âm mưu xâm lược của thực dân Pháp, chống giặc đói, giặc dốt, xây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân. Lực lượng an ninh được tăng cường nhằm giữ vững trật tự trị an, chống bọn gián điệp, chỉ điểm, đặc vụ phản cách mạng.

Trong bối cảnh lịch sử chung của toàn quốc sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng bộ và chính quyền lâm thời của tỉnh vừa mới thành lập đã phải đương đầu ngay với sự quấy phá của các thế lực phản động. Quân đoàn 52 của Tưởng Giới Thạch ra sức quấy nhiễu, lùng sục vào các vùng lân cận Thị xã Hà Giang cướp của, giết hại đồng bào ta. Chúng tìm mọi cách để thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Nhân cơ hội này, bọn Việt Nam Quốc dân Đảng tụ tập lực lượng để gây áp lực với chính quyền cách mạng.

Để hợp pháp hoá chính quyền dân chủ nhân dân các cấp từ Trung ương đến địa phương, Trung ương Đảng chủ trương tổ chức cuộc tổng tuyển cử trong toàn quốc, bầu ra Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 6/1/1946 trong không khí tưng bừng phấn khởi của quân và dân cả nước, nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn nô nức đi bầu cử, bầu ra 2 đại biểu (ông Nguyễn Thanh Phong, Chủ tịch lâm thời Uỷ ban hành chính tỉnh và ông Vương Chí Sình, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính huyện Đồng Văn) vào Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi này đã làm thất bại âm mưu chia rẽ, phá hoại chính quyền cách mạng của địch. Hệ thống chính quyền các cấp được củng cố. Một cuộc sống mới của nhân dân các dân tộc được xây dựng. Các dân tộc giúp đỡ tương trợ lẫn nhau, tích cực tham gia vào các hội cứu quốc, tham gia các phong trào cách mạng, đẩy lùi “giặc đói, giặc dốt” xóa bỏ hủ tục lạc hậu, thực hiện đời sống mới.

Cuối năm 1946, quan hệ giữa Chính phủ Việt Nam và Pháp hết sức căng thẳng, ngày 20/11/1946 thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, đổ bộ hàng ngàn quân lên cảng Đà Nẵng. Tại Hà Nội, Pháp luôn khiêu khích và gây ra nhiều vụ đổ máu. Chúng còn ngang ngược gửi tối hậu thư đòi giải tán Chính quyền Trung ương và lực lượng vũ trang ta, thực chất là bắt ta đầu hàng. Trước tình hình đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hòa bình. Dù thực dân pháp đã bội ước, đã gây chiến tranh, nhưng gần một năm tạm hòa bình đã cho chúng ta thời cơ để xây dựng lực lượng căn bản.

Khi Pháp đã cố ý gây chiến tranh, chúng ta không thể nhịn nữa thì cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu”[1].

Ngày 19/12/1946 Hồ Chủ Tịch ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngày 22/12/1946 Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân Kháng chiến. Chỉ thị nêu rõ mục đích cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất tổ quốc. Đường lối chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Hồ Chủ Tịch và thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, cả dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng, đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trước yêu cầu nhiệm vụ chuẩn bị kháng chiến chống Pháp, Ủy ban Hành chính huyện, xã được đổi thành Ủy ban Kháng chiến Hành chính (UBKCHC). Mặt trận và các tổ chức quần chúng như thanh niên, phụ nữ, nông dân, thiếu nhi được củng cố, tích cực vận động nhân dân hăng hái tăng gia sản xuất, phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Lực lượng dân quân du kích tại các xã được xây dựng nhằm thực hiện nhiệm vụ giữ vững trật tự trị an, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa phương, mặc dù lúc này Thổ ty, Tổng giáp vẫn nắm giữ quyền lực chủ yếu. Để chuẩn bị cho nhiệm vụ xây dựng chính quyền, sau cách mạng tháng Tám 1945, một số thanh niên ưu tú tại địa phương đã được cử đi học văn hóa, bồi dưỡng nghiệp vụ để trở thành những cán bộ cho địa phương.

Hưởng ứng lời kêu gọi “diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, sự chỉ đạo trực tiếp của cán bộ Việt Minh, nhân dân xã Đồng Văn đã hăng hái, tích cực tăng gia sản xuất với khẩu hiệu “Tấc đất, tấc vàng” sản xuất để cứu đói và ủng hộ kháng chiến kiến quốc.

Về văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến đáng phấn khởi. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân xã Đồng Văn không có người biết chữ. Sau khi có sắc lệnh “Bình dân học vụ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào “xóa mù chữ” ở xã Đồng Văn diễn ra sôi nổi, trong một thời gian ngắn đã có hàng trăm người  biết đọc, biết viết. Một số người xóa xong mù chữ được đi đào tạo giáo viên cấp tốc về phục vụ việc giảng dạy cho con em, nhân dân địa phương. Đi đôi với phong trào xóa mù chữ, việc thực hiện xây dựng nếp sống văn hóa mới, phong trào vệ sinh được nhân dân tích cực hưởng ứng.

Những năm 1946-1948 cơ sở cách mạng của ta ở Đồng Văn chỉ có ở khu Yên Minh, trong vùng Thổ ty mới có một vài cơ sở ngầm, bởi lúc đó thế lực Thổ ty, Bang tá còn rất mạnh. Dựa vào danh nghĩa Chủ tịch huyện và lợi dụng tình thế cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của ta còn nhiều khó khăn, Bang tá Vương Chí Sình ra sức củng cố và mở rộng phạm vi thống trị của mình. Do mâu thuẫn quyết liệt trong việc tranh giành ảnh hưởng đã dẫn đến việc thanh toán lẫn nhau giữa hai thế lực Thổ ty, Bang tá lớn nhất ở Đồng Văn. Vì có lực lượng quân sự mạnh, Bang tá Vương Chí Sình đã đánh bại Bang tá Dương Trung Nhân ở Mèo Vạc. Các Bang tá nhỏ như Chánh Quay, Chánh Tư, Lý Phúc, Lý Quí chịu sự quản thúc, giáo dục của ta, chỉ còn Bang tá Vương Chí Sình vẫn giữ được ảnh hưởng trong vùng, bề ngoài Vương vẫn tỏ ý theo cách mạng nhưng bên trong Vương giữ thái độ trung lập chờ thời cơ.

Vương duy trì bộ máy gần như thời Pháp thuộc với luật lệ, tòa án, nhà tù riêng, do ông đặt ra. Bên cạnh Vương là những người giúp việc về từng mặt như ngoại giao, kinh tế, quân sự, nội trị. Dưới quyền của Vương là các Tổng giáp, Mã phài ở các xã. Vương đặt ra các loại thuế riêng: thuế nương rẫy, thuế thuốc phiện, thuế bếp lửa, thuế lao dịch, thuế sòng bạc, thuế chợ. Thời gian này ở huyện Đồng Văn không sử dụng tiền giấy Cụ Hồ (đồng tiền do Nhà nước VNDCCH phát hành) mà sử dụng đồng bạc già do Pháp đúc và phát hành từ trước. Cán bộ do Chính phủ phái lên công tác phải mang muối lên bán lấy bạc già mới có tiền tiêu. Các chủ trương chính sách lớn của Đảng và Chính phủ được triển khai ở vùng tự do nhưng chưa được thi hành ở vùng Thổ ty.

Lực lượng vũ trang riêng của Vương trước cách mạng tháng 8/1945 có hơn 100 người, sau cách mạng tháng 8/1945 phát triển thành tiểu đoàn địa phương. Tháng 12/1948 ta làm lễ chính quy hóa tiểu đoàn của Vương thành tiểu đoàn 530 Đồng Văn. Trên thực tế, do thái độ hai mặt của Vương nên ta không nắm được lực lượng vũ trang Đồng Văn. Để tiến tới chuyển hóa lượng vũ trang Đồng Văn về với cách mạng, một mặt ta vừa kiên trì thuyết phục Vương, kiên quyết ngăn chặn mọi sự phá hoại của Vương, mặt khác ta tranh thủ gây cơ sở, đưa cốt cán vào lực lượng vũ trang để nắm dần lực lượng này đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh, của Trung ương để kiểm soát mọi hành động của Vương, bởi gián điệp Pháp, đặc vụ Tưởng đang hoạt động ráo riết ở Đồng Văn nhằm lôi kéo Vương chống lại cách mạng.

Nhiệm vụ đặt ra hết sức cấp bách để lãnh đạo phong trào cách mạng ở Đồng Văn lúc này là phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 6/1/1948 Tỉnh ủy Hà Giang quyết định thành lập Chi bộ Đảng ở khu Yên Minh gồm 4 đảng viên do đồng chí Chu Văn Niệm làm Bí thư. Ngày 6/3/1949 Tỉnh ủy Hà Giang ra quyết định thành lập Ban Huyện ủy lâm thời huyện Đồng Văn gồm 4 ủy viên, đồng chí Triệu Quý Gia được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy lâm thời. Ngay sau khi thành tập, Huyện ủy Đồng Văn đã tập trung vào việc xây dựng, củng cố tổ chức Mặt trận Việt Minh, xây dựng cơ sở Đảng, nhất là ở các xã thuộc vùng Thổ ty, từng bước tuyên truyền, tổ chức thực hiện những chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, nhằm thu hẹp dần ảnh hưởng của Thổ ty.

Ngày 26/3/1949 Ban Thường vụ Tỉnh ủy trực tiếp làm việc với Ban Huyện ủy Đồng Văn. Sau khi nhận định đánh giá tình hình mọi mặt của huyện, nhất là thái độ 2 mặt của Vương Chí Sình và tình hình hoạt động của gián điệp, đặc vụ trên địa bàn, Hội nghị đã chỉ rõ cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các mặt, đẩy nhanh xây dựng cơ sở chính trị ở vùng Thổ ty, tích cực đào tạo cán bộ người Mông, gây cơ sở quần chúng theo hình thức tổ chức công khai. Cải tổ lại Ủy ban Hành chính huyện, xã theo đúng Sắc lệnh 254, cương quyết trừng trị bọn gián điệp Pháp, đặc vụ Tưởng. Đối với Thổ ty, cần nhân nhượng về kinh tế, nắm dần lực lượng quân sự, cương quyết, khôn khéo giám sát Vương, không để gián điệp Pháp, đặc vụ Tưởng lợi dụng lôi kéo.

Từ cuối năm 1948 đầu năm 1949, trên địa bàn xã Đồng Văn đã có nhiều cán bộ Việt Minh tới vận động, tuyên truyền giác ngộ quần chúng, làm cho quần chúng dần dần nắm, hiểu biết rõ về chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ. Tại đây, cán bộ Việt Minh đã củng cố xây dựng được các cơ sở quần chúng như: Mặt trận cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, thanh niên cứu quốc và từng bước khéo léo lãnh đạo nhân dân chống lại sự bóc lột của Thổ ty, Bang tá bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân. Nhờ vậy, nhân dân đã bắt đầu hiểu, tin tưởng vào cán bộ và chính quyền cách mạng.

Phong trào cách mạng phát triển mạnh ở khu Yên Minh đã lan rộng ảnh hưởng trực tiếp tới các xã thuộc vùng Thổ ty, Bang tá... Ngày 10/9/1949 Chi bộ Đảng xã Đồng Văn được thành lập với 4 đảng viên[2], trong đó có 3 người được kết nạp tại địa phương (đó là các đồng chí: Nguyễn Quang Đạo, Lương Huy Sì và Bùi Quang Diện) và 1 cán bộ tăng cường của Huyện ủy, đó là đồng chí Cầm Ngọc Tuy đồng thời đồng chí được chỉ định làm Bí thư Chi bộ. Đây là một trong 2 Chi bộ đầu tiên (xã Đồng Văn và Phó Bảng) ở vùng Thổ ty được thành lập. Ngay sau khi thành lập, Chi bộ Đảng xã Đồng Văn đã tập trung nghiên cứu triển khai thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, các Chỉ thị, Nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xác định nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là làm tốt công tác vận động quần chúng, tích cực hướng dẫn nhân dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, thực hiện giảm tô, giảm tức, tuyên truyền chủ trương đường lốì, chính sách của Đảng và Nhà nước, tố cáo tội ác của Đế quốc và Thổ ty phong kiến.

Cùng với việc thành lập Chi bộ Đảng, việc bầu xã bộ Việt Minh ở xã Đồng Văn được tiến hành, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên. Từ đó, phạm vi ảnh hưởng và uy tín của Thổ ty, Bang tá ở xã Đồng Văn từng bước bị thu hẹp, dân chúng ngày càng tin tưởng vào cán bộ, vào sự lãnh đạo của Đảng. Tuy vậy ta vẫn chưa thực sự làm cho phong trào cách mạng tiến mạnh về mọi mặt, việc giác ngộ và tổ chức quần chúng chưa có kế hoạch tỉ mỉ, nhiều cán bộ không biết tiếng địa phương nên công tác này tiến triển chậm.

Nhằm thực hiện nhiệm vụ giải phóng cho dân chúng huyện Đồng Văn khỏi ách Thổ ty phong kiến, làm cho huyện Đồng Văn tiến mạnh trong giai đoạn phản công chiến lược, ngày 8/4/1950 Tỉnh ủy Hà Giang ra Nghị quyết chuyên đề về chủ trương hòa bình cải tạo chế độ Thổ ty. Trên cơ sở phân tích kỹ tình hình, đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Đồng Văn, Nghị quyết chỉ rõ: Tăng cường công tác dân vận, tuyên truyền chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tố cáo tội ác của đế quốc và Thổ ty phong kiến, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tích cực hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, thực hiện giảm tô, giảm tức. Tăng cường xây dựng và kiện toàn hệ thống chính quyền từ huyện đến xã, xây dựng lực lượng quân sự làm hậu thuẫn cho công tác chính trị tiến tới nắm được lực lượng quân sự của Thổ ty; đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng, tăng cường đào tạo và rèn luyện cán bộ về tư tưởng, chính trị, quân sự, văn hoá, chăm lo cải thiện đời sống và đem lại quyền lợi thiết thực cho nhân dân.

 Đối với Thổ ty phong kiến ở Đồng Văn, Tỉnh ủy đề ra chủ trương: Vẫn đứng trên lập trường đoàn kết nhưng không nhân nhượng một cách hữu khuynh, cương quyết ngăn cản sự bành trướng thế lực, hạn chế sự bóc lột của Thổ ty, Bang tá, Tổng giáp bằng mọi cách. Dân chủ hóa bộ máy chính quyền vùng Thổ ty, làm cho Vương Chí Sình phải tôn trọng chính quyền địa phương, tước dần lực lượng vũ trang của Thổ ty, làm cho lực lượng đó dần trở thành lực lượng của ta; cương quyết trừng trị tay sai phản động của Thổ ty, bọn thổ phỉ quấy rối ở địa phương, truy quét đặc vụ Tưởng, gián điệp Pháp.

Nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ, sát sao của Tỉnh ủy, Huyện uỷ Đồng Văn từng bước được củng cố, kiện toàn. Cuối năm 1950 ta chuyển cơ quan Huyện uỷ, Mặt trận huyện và các tổ chức quần chúng từ Yên Minh lên xã Đồng Văn và sau đó chuyển về Phó Bảng đồng thời cho lập Tòa án và thiết lập một số đồn Công an ở Phó Bảng, Đồng văn, Khâu Vai để giúp Ủy ban Hành chính huyện trong việc xét xử và giữ gìn trật tự an ninh. Đến tháng 12 năm 1950 nhờ tăng cường công tác dân vận, việc thống nhất Việt Minh - Liên Việt ở huyện Đồng Văn được thực hiện đúng theo kế hoạch, đã vận động được một số người trong tầng lớp trên của vùng Thổ ty tham gia Ban Chấp hành Liên Việt. Mặt trận dân tộc thống nhất và các tổ chức quần chúng như Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân ở nhiều xã thuộc vùng Thổ ty được thành lập.

Cùng với những thắng lợi ngày càng to lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, đặc biệt là từ sau chiến dịch Biên giới (10/1950) thực dân Pháp rút khỏi Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Lào Cai và Hoàng Su Phì (Hà Giang). Bên kia biên giới, Quân giải phóng Trung Quốc đẩy mạnh truy quét tàn quân Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch, Bang tá Vương Chí Sình mất chỗ dựa, buộc phải thay đổi thái độ với ta. Việc Huyện ủy Đồng Văn công khai hoạt động trên đất Thổ ty là một thắng lợi to lớn, khẳng định lợi thế so sánh giữa ta và Thổ ty, Bang tá tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xây dựng, phát triển cơ sở quần chúng, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong vùng Thổ ty, Bang tá.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Huyện uỷ, trong điều kiện dân chúng còn mù chữ, đói nghèo, khổ cực, đường sá đi lại khó khăn, từ tháng 6 năm 1950, Chi bộ xã Đồng Văn đã rất cố gắng khắc phục mọi trở ngại, cải thiện dân sinh, thường xuyên mở các đợt vận động sản xuất, cứu đói, cứu rét, tiếp tế cho dân chúng, giúp đỡ nhân dân khai phá rừng hoang, tăng gia sản xuất, tăng diện tích trồng ngô... Nhờ đó, đời sống của nhân dân đã từng bước khắc phục được một số khó khăn. Việc lãnh đạo đấu tranh giảm tô đã được thực hiện, nhưng mới có ruộng cho cấy rẽ. Tình trạng cho vay nặng lãi ở xã Đồng Văn vẫn còn nhưng đã giảm mạnh. Mặt khác, ngoài số tiền của tỉnh, huyện cho dân nghèo vay, xã Đồng Văn đã cố gắng tìm cách giúp đỡ dân nghèo bằng cách huy động vốn nhà giàu có tinh thần tiến bộ cho vay được 6 con trâu, bò và một số tiền dự trữ. Các đợt vận động chính trị đoàn kết dân tộc, tuyên truyền vạch trần âm mưu chia rẽ của địch, đã góp phần làm cho nhân dân hiểu biết về chính quyền cách mạng, mở rộng ảnh hưởng của Chính phủ trong dân, gây dựng được cơ sở chính trị trong nhân dân.

Trên       lĩnh       vực kinh tế, thực hiện chính sách thụế mới ban hành của Trung ương ngày 14/9/1951, theo chương trình, kế hoạch của Huyện uỷ Đồng Văn, Chi bộ xã đã xác định đây vừa là nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời thông qua đó tiếp tục củng cố xây dựng cơ sở trong quần chúng. Lúc đầu, do trình độ giác ngộ của nhân dân và trình độ tổ chức, vận  động của cán bộ ta còn hạn chế, thêm vào đó bọn phản động tung tin tuyên truyền, xuyên tạc chính sách thuế của ta làm cho nhân dân có phần hoang mang dao động, gây nhiều khó khăn, phức tạp cho ta trong cuộc vận động thực hiện chính sách thuế nông nghiệp. Nhưng chỉ sau một thời gian, với sự khéo léo, kiên trì vận động, thuyết phục của cán bộ, đồng bào đã dần thấy được tính ưu việt của chính sách thuế nông nghiệp.

Cùng với việc tuyên truyền thực hiện chính sách thuế nông nghiệp, Chi bộ xã Đồng Văn đã tập trung quán triệt thực hiện Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ I (họp ngày 10/4/1950), Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ II (họp ngày 15/4/1951). Nhờ vậy các chủ trương công tác lớn ở địa phương được triển khai thực hiện tích cực. Công tác bồi dưỡng phát triển Đảng được chú trọng, các cơ sở quần chúng ở thôn, bản không ngừng được củng cố phát triển. Chính quyền, Mặt trận Dân tộc thống nhất, các đoàn thể quần chúng được củng cố một bước quan trọng. Công tác tuyên truyền, giác ngộ quần chúng tích cực tham gia phong trào cách mạng được đẩy mạnh thực hiện.

Từ cuối năm 1951, Giải phóng quân Trung Quốc đẩy mạnh tiễu phỉ Quốc dân Đảng, tàn quân phản động dạt về vùng biên giới phối hợp hoạt động. Lợi dụng tình hình trên, thực dân Pháp tung nhiều toán gián điệp, biệt kích trở lại biên giới móc nối, tập hợp lực lượng tiếp tục chống phá cách mạng. Chúng dự định sẽ gây dựng lại bọn phỉ ở Hoàng Su Phì và Đồng Văn, phối hợp với bọn phản động nội ứng bên trong, khi có thời cơ thì nổi lên đánh chiếm huyện Hoàng Su Phì, Đồng Văn và Thị xã Hà Giang.

 Khi có bàn tay chỉ đạo của thực dân Pháp, bọn phỉ phản động ở vùng biên giới Hà Giang phối hợp với phỉ Hạng Sào Chúng ở bên kia biên giới tích cực hoạt động trở lại. Những tháng cuối năm 1951, phỉ gây ra hàng chục vụ cướp của, giết người ở dọc tuyến biên giới. Từ đầu năm 1952 chúng tăng cường các cuộc tập kích nhỏ lẻ. Tháng 4 và 5 năm 1952, Pháp liên tiếp thả dù tiếp tế cho phỉ, chỉ thị cho phỉ hoạt động mạnh nhằm cướp kho, cắt đường liên lạc, phá hoại chính quyền địa phương, tuyên truyền chống chính sách của Đảng và Nhà nước.

Đầu năm 1952 Trung ương Đảng chủ trương phối hợp với quân giải phóng Trung Quốc mở chiến dịch tiễu phỉ “Đông Tây tập đoàn”. Kế hoạch chiến dịch tiễu phỉ diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1952 trên khắp tuyến biên giới Việt - Trung, nhưng chủ yếu là ở Hà Giang và Lao Cai. Mục đích của chiến dịch này là quét sạch phỉ, đặc vụ ở cả hai bên biên giới Việt - Trung, giải phóng nhân dân, thực hiện chính sách dân tộc miền núi của Đảng và Chính phủ. Chi bộ xã Đồng Văn đã tổ chức huy động lực lượng dân quân du kích tăng cường tuần tra, canh gác, phối hợp với tiểu đoàn 530 Đồng Văn và bộ đội chủ lực truy quét thổ phỉ, đặc vụ, đặc biệt là phối hợp truy lùng, tiêu diệt hoàn toàn toán biệt kích 49 tên của Pháp nhảy dù xuống Mèo Vạc ngày 3/7/1952. Động viên nhân dân đóng góp nhiều lương thực, thực phẩm cho bộ đội; tuyên truyền cho nhân dân hiểu rõ âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp và thổ phỉ phản động, đường lối chính sách dân tộc của Đảng.

Được chỉ đạo chặt chẽ của Ban Chỉ huy chiến dịch, xã Đồng Văn đã tổ chức cho các Tổng giáp, Mã phài về huyện dự lớp tập huấn cán bộ xã (lúc này cán bộ xã đều là Tổng giáp, Mã phài của Bang tá Vương Chí Sình, ta đang chuyển hoá thành Chính quyền cách mạng). Tổ chức các cuộc nói chuyện chính trị trong các tầng lớp nhân dân và thành phần lớp trên. Vương Chí Sình và tay chân bề ngoài tỏ ra hăng hái tham gia các công việc cách mạng, nhưng bên trong vẫn ngấm ngầm chống lại cách mạng. Khi ta tập trung Tổng giáp, Mã phài về học tập, Vương không cho họ bàn giao công việc cho người khác và “yêu cầu họ chỉ ngồi nghe chứ không nói gì cả” đồng thời bí mật bố trí lực lượng bảo vệ bên ngoài đề phòng ta bắt họ, không cho tay chân thân cận đi học ở Liên khu và Trung ương vì sợ ta bắt và mua chuộc. Mặc dù vậy lớp học Tổng giáp, Mã phài vẫn thu được kết quả tốt, nhiều người tham gia lớp học đã hiểu, đồng tình với chính sách của Đảng và Nhà nước, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, vào tương lai tươi sáng của chế độ mới.

Qua đợt tuyên truyền này, bức màn thần bí về gia đình dòng họ Vương Chí Sình, các Tổng giáp, Mã phài được vén lên phơi bày với những tội ác áp bức bóc lột đối với đồng bào các dân tộc. Ý thức giai cấp và phong trào cách mạng của quần chúng được nâng lên, các cơ sở trung kiên phát triển, Chính quyền cách mạng địa phương được tăng cường một bước mới cả về số lượng, chất lượng. Cùng với việc tẩy chay tiền bạc trắng của Pháp, ta phát hành tiền ngân hàng Việt Nam. Các cấp chính quyền khẩn trương hướng dẫn nhân dân ổn định đời sống, nương rẫy trước kia bỏ hoang nhiều nay được khai khẩn trồng lúa, hoa màu, trật tự xã hội dần ổn định, đồng bào các dân tộc hiểu và tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng, Chính phủ, thấy rõ âm mưu thâm độc của thực dân Pháp và tay sai. Nhưng cũng như các vùng rẻo cao khác trong vùng Thổ ty, Bang tá lúc này tình hình kinh tế, tài chính, đặc biệt là lương thực, muối, tiền, bạc trắng trên địa bàn xã còn gặp nhiều khó khăn. Tầng lớp Thổ ty, Tổng giáp, Mã phài còn nắm phần lớn kinh tế và chi phối khá lớn trong đời sống tinh thần đồng bào địa phương.

   Cũng từ năm 1952 trở đi, ta tăng cường giác ngộ các chiến sĩ trong tiểu đoàn 530 Đồng Văn, lần lượt cử những người có năng lực cho đi học văn hóa, đào tạo họ thành cán bộ. Cùng với những việc làm trên, Chính phủ đã cấp quân trang và sinh hoạt phí cho tiểu đoàn Đồng Văn. Qua đó vừa xóa được cái cớ thu thuế để nuôi bộ đội của Thổ ty, vừa có điều kiện để quản lý tiểu đoàn 530, dần dần từng bước giáo dục, cảm hóa họ. Đầu năm 1953 ta đã chuyển hóa tiểu đoàn 530 Đồng Văn của Vương Chí Sình thành đại đội 8 địa phương. Ngày 15/4/1953 Ban Chỉ huy Huyện đội Đồng Văn được thành lập do đồng chí Mã Chính Lâm làm Huyện đội trưởng, đồng chí Hoàng Đạo làm chính trị viên, trực tiếp chỉ huy bộ đội địa phương và dân quân du kích. Ngay sau đó Ban Chỉ huy xã đội xã Đồng Văn và các xã trong vùng Thổ ty được thành lập trực tiếp chỉ huy lực lượng dân quân du kích. Tuy vậy, vẫn còn một số cán bộ và dân quân du kích trong vùng Thổ ty vẫn chịu ảnh hưởng của chế độ Thổ ty, chưa hoàn toàn đi theo cách mạng.

Vừa kết hợp xây dựng củng cố chính quyền, các đoàn thể quần chúng, Chi bộ xã Đồng Văn vừa tổ chức học tập chính trị cho quần chúng quán triệt những chủ trương, quyết tâm lớn của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Kịp thời đưa tin những thắng lợi của ta trên chiến trường và sự thất bại của thực dân Pháp nhằm tạo không khí phấn khởi, tin tưởng của nhân dân. Để thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, Chi bộ đã tổ chức mở các lớp học phổ biến chính sách dân tộc của Đảng cho đồng bào các dân tộc. Qua đợt học tập, đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã đã nhận rõ âm mưu thâm độc của bọn phản động và hiểu rõ, đồng tình với chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng ta. Từ đó, tăng cường củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, hăng hái tham gia các công tác do chính quyền, đoàn thể phát động.

 Thực hiện chủ trương của Đảng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn ra sức tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế nông nghiệp để ổn định đời sống nhân dân và đóng góp cho kháng chiến. Việc thi hành sắc lệnh thuế nông nghiệp do Chính phủ đề ra “đánh nặng vào Tổng giáp, Mã phài, giảm nhẹ cho bần nông” đã làm cho nông dân phấn khởi, tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, hăng hái thi đua sản xuất, khai hoang phục hoá, tăng vụ, đóng góp đầy đủ thuế lương thực cho Nhà nước. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên khó khăn, là một xã vùng cao núi đá, do đó, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nền kinh tế của xã vẫn trong tình trạng tự cấp, tự túc.

Công tác văn hóa giáo dục luôn được Chi bộ quan tâm lãnh chỉ đạo thường xuyên. Đến năm 1954 xã Đồng Văn đã có lớp vỡ lòng, lớp 1, lớp 2. Phong trào bình dân học vụ, xóa mù chữ được phát động và tất cả các thôn, bản đều có lớp bình dân học vụ để xóa mù chữ cho nhân dân và nâng cao trình độ cho cán bộ tại địa phương. 

Dưới chế độ mới, đời sống văn hóa tinh thần nhân dân không ngừng phát triển. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã có nhiều hoạt động tích cực cải thiện đời sống văn hóa tinh thần của dân, vừa chăm lo bảo tồn các lễ hội văn hóa truyền thống, vừa tích cực vận động nhân dân cải cách phong tục tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh. Các hủ tục lạc hậu trong ma chay, cưới xin, bói toán trước đây rất nặng nề đã giảm đáng kể. Phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng phát triển, góp phần động viên nhân dân các dân tộc phấn khởi, tích cực đẩy mạnh sản xuất, đóng góp cho kháng chiến.

Sau 5 năm (1950-1954) thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ về chủ trương hòa bình cải tạo chế độ Thổ ty, Chi bộ xã Đồng Văn đã vận động xóa bỏ về căn bản các đặc quyền, đặc lợi, thu hẹp được ảnh hưởng và tàn tích của chế độ Thổ ty, đã cải hóa Ủy ban xã từ chỗ là chính quyền của Thổ ty thành Ủy ban Hành chính xã với đủ các thành phần dân tộc trong Ủy ban, chăm lo giải quyết các quyền lợi của người dân, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ Đảng.    

Bước sang năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta trên phạm vi cả nước dồn sức cho chiến dịch Điện Biên Phủ với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến”. Thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn đã góp phần cùng với nhân dân cả nước tích cực chuẩn bị chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Hàng chục chiến sĩ dân công nam nữ của xã Đồng Văn hăng hái lên đường ra mặt trận. Từ các bản làng xa xôi, hẻo lánh, người người, nhà nhà đều góp công, góp của cho tiền tuyến. Ngoài việc hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân, huy động dân công phục vụ các chiến dịch, cấp ủy, chính quyền xã còn chỉ huy lực lượng dân quân du kích thực hiện tốt nhiệm vụ tiễu trừ thổ phỉ phản động, bảo vệ vững chắc hậu phương.

Trong chặng đường lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954), Chi bộ Đảng và nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn vô cùng phấn khởi, tự hào đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng đã đề ra, luôn nêu cao tinh thần đoàn kết đấu tranh tẩy chay Thổ ty phong kiến, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, giữ vững trật tự trị an, bảo vệ vững chắc hậu phương, chi viện sức người sức của cho tiền tuyến, góp phần cùng nhân dân cả nước đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.

   II. CHI BỘ ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN XÃ ĐỒNG VĂN TRONG THỜI KỲ VỪA XÂY DỰNG CNXH VỪA KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975)

   1. Chi bộ Đảng xã Đồng Văn lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống âm mưu phá hoại của địch, đẩy mạnh phát triển kinh tế văn hóa trong giai đoạn cải tạo và xây dựng CNXH (1954 - 1965)

Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 thắng lợi, đã kết thúc chín năm kháng chiến chông thực dân Pháp của dân tộc ta, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam và Đông Dương. Nhưng ngay sau đó, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, phá hoại hiệp định Giơnevơ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Nước ta bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bước vào giai đoạn khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, tiến lên CNXH, làm hậu phương vững chắc cho cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong giai đoạn 1955-1960 tình hình trật tự trị an ở huyện Đồng Văn còn rất phức tạp, chế độ Thổ ty phong kiến chưa bị đánh đổ hoàn toàn, bọn đặc vụ Tưởng Giới Thạch và tầng lớp trên tăng cường hội họp bàn cách chống phá cách mạng. Chúng tổ chức buôn lậu có vũ trang để đi lại móc nối với nhau, đe doạ khủng bố tinh thần những người tích cực theo cách mạng, đưa tay chân của chúng vào lực lượng dân quân, gạt bỏ thành phần tích cực của ta, tìm mọi cách chia rẽ cán bộ, bộ đội với nhân dân, đe doạ lực lượng cốt cán của ta. Chúng tuyên truyền đề cao Pháp - Mỹ, chống chính sách thuế, dân công, phá hoại sản xuất, chia rẽ các dân tộc.

Nhiệm vụ xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng trở nên vô cùng cấp bách[3]. Công tác xây dựng, củng cố cơ sở Đảng lúc này gặp nhiều khó khăn, số lượng đảng viên ít, trình độ văn hoá và lý luận thấp, nhiều xóm, bản không có đảng viên. Hoạt động của các tổ chức đoàn thể yếu, có nơi hầu như không hoạt động. Trước tình hình đó, Chi bộ coi trọng đặc biệt nhiệm vụ xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng. Chi bộ Đảng xã xác định nhiệm vụ đầu tiên là tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho chính quyền và các tổ chức đoàn thể từ xã tới xóm, bản và rà soát và lựa chọn những cán bộ có phẩm chất, năng lực và lòng nhiệt tình nắm giữ các cương vị chủ chốt trong chính quyền và các đoàn thể nhằm từng bước gạt bỏ ảnh hưởng của tầng lớp trên trong chính quyền, đưa mọi hoạt động ở xã đi dần vào nề nếp, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Do tình hình chính trị còn rất phức tạp, thế lực kinh tế, chính trị của Thổ tỵ phong kiến còn mạnh, trong giai đoạn 1955 - 1957, Chi bộ tổ chức thực hiện chủ trương của huyện Đồng Văn là chưa tiến hành cải cách ruộng đất, mà chỉ tiến hành một số chính sách như giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất, thực hiện thuế nông nghiệp. Xuất phát từ đặc điểm tình hình ở Đồng Văn là chế độ Thổ ty phong kiến nên ta chỉ thi hành sắc lệnh giảm tô ở mức bình thường nhằm giải quyết nhiệm vụ trước mắt là “người cày có ruộng”. Lúc này, do ảnh hưởng sai lầm của cuộc cải cách ruộng đất ở miền xuôi và cải cách ruộng đất ở Trung Quốc làm cho giai cấp bóc lột ở huyện Đồng Văn hoang mang, lo sợ bị mất quyền lợi, tìm cách tẩu tán tài sản, ruộng đất. Chúng câu kết với các phần tử phản động, bất mãn xuyên tạc và chống lại chính sách giảm tô, giảm tức của ta, đặc biệt là chính sách thuế nông nghiệp và các cuộc vận động xã hội khác.

Cùng với nhiệm vụ giảm tô, giảm tức cải cách dân chủ, hạn chế dần sự bóc lột của tầng lớp Thổ ty, Bang tá, Chi bộ xã Đồng Văn còn tích cực thực hiện Nghị quyết Trung ương về xây dựng tổ đổi công. Được sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện, xã Đồng Văn đã kết hợp cuộc vận động xây dựng tổ đổi công với cuộc vận động thành lập Khu tự trị Việt Bắc. Chi bộ xã đã tổ chức quán triệt đầy đủ trong quần chúng nhân dân 3 nguyên tắc về thành lập tổ đổi công, đó là: cùng có lợi, dân chủ và tự nguyện. Đến năm 1956, xã Đồng Văn có đã thành lập được 19 tổ đổi công với hàng trăm hộ xã viên. Mặc dù hình thức hoạt động của tổ đổi công mới chỉ ở mức đơn giản như mượn công, đổi công từng vụ, từng việc để hỗ trợ nhau về công lao động, sức kéo, giống, nông cụ, nhưng đã góp phần nâng cao năng suất lao động, từng bước khắc phục nạn đói, nâng cao đời sống nhân dân.

Nhằm tổng kết đánh giá những thành tựu cũng như hạn chế của Chi bộ Đảng từ khi thành lập, chuẩn bị cho nội dung chương trình cho Đại hội Đảng bộ huyện Đồng Văn lần thứ nhất, tháng 7/1957 Chi bộ xã Đồng Văn tổ chức Đại hội Chi bộ lần thứ nhất. Đến thời điểm đại hội, kinh tế - xã hội của xã Đồng Văn đã có bước chuyển biến tích cực. Kinh tế nông nghiệp bước đầu phát triển, năng suất, diện tích đều tăng. Quyền lợi chính trị và kinh tế của nhân dân được xác lập, sự lệ thuộc vào Thổ ty phong kiến được hạn chế về cơ bản. Trình độ dân trí và sức khoẻ người dân được cải thiện. Chi bộ Đảng, Ủy ban Hành chính xã, các tổ chức đoàn thể được kiện toàn. Uy tín và vai trò của Chi bộ Đảng được nâng cao trong quần chúng các dân tộc.

Bên cạnh những thuận lợi, kinh tế nông nghiệp đã có bước phát triển nhưng còn ở trình độ thấp, là nền kinh tế thuần tuý nông nghiệp, lạc hậu, manh mún, năng suất thấp. Kết cấu hạ tầng yếu kém, trình độ dân trí chưa phát triển đồng đều, số người mù chữ còn cao, đời sống còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Tình hình an ninh chính trị phức tạp, các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, nghiện hút, buôn lậu, mê tín dị đoan còn xảy ra nhiều. Xuất phát từ tình hình trên, Chi bộ đã tăng cường tổ chức giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng phát triển đảng viên mới, cử người đi học tập và bồi dưỡng tại các trường Đảng ở Liên Khu và tỉnh đồng thời tổ chức cho đảng viên học tập Nghị quyết Trung ương 10, 11 và 12 về công tác xây dựng và phát triển Đảng.

Ngày 10/8/1957 Đảng bộ huyện Đồng Văn tổ chức Đại hội toàn thể đảng viên lần thứ nhất. Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ chủ yếu trong nhiệm kỳ tới là: Tăng cường củng cố khối đoàn kết giữa các dân tộc; tổ chức lănh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội, chăm lo và cải thiện đồi sông nhân dân; tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang từ huyện đến xã; đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các tổ chức đoàn thể để đáp ứng yểu cầu lãnh đạo mọi mặt trong giai đoạn cách mạng mới.

 Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất, Chi bộ xã Đồng Văn đã lãnh đạo nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động đẩy mạnh sản xuất, xóa mù chữ, bảo vệ trị an, thi hành sắc lệnh giảm tô, giảm tức, thành lập Khu tự trị Việt Bắc, phát triển tổ đổi công và hợp tác xã. Đây là những cuộc vận động lớn nhằm mang lại lợi ích cho nông dân lao động. Chi bộ, chính quyền tiến hành tạm cấp ruộng công, ruộng hoang hóa, ruộng vắng chủ và của Thổ ty phong kiến cho nông dân, giải quyết nhu cầu người cày có ruộng. Do có chủ trương đúng đắn và công tác tuyên truyền, vận động của đảng viên, cán bộ, nhân dân trên địa bàn thị trấn đồng tình ủng hộ và cam kết thực hiện chủ trương theo sắc lệnh của Chính phủ, phấn khởi tích cực sản xuất cải thiện đời sống, hăng hái đóng thuế cho Nhà nước. Trong các cuộc vận động này cùng với việc củng cố các cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng, lực lượng dân quân du kích ở các xóm, bản được xây dựng củng cố một bước.

Nhằm đem lại lợi ích cho nhân dân lao động, trong những năm 1958-1960 tỉnh Hà Giang đẩy mạnh cuộc vận động cải cách dân chủ. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt nhằm hạn chế, tiến tới xóa bỏ quyền lợi chính trị, kinh tế của tầng lớp Thổ ty, Bang tá, Tổng giáp, Mã phài... Năm 1958 huyện Đồng Văn có 14 xã có Thổ ty, Bang tá, Tổng giáp, Mã phài... sở hữu hàng chục ngàn ha ruộng đất. Tháng 11 năm 1959 Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đồng Văn ra Nghị quyết về công tác củng cố các tổ đổi công và xây dựng Hợp tác xã. Tháng 3 năm 1959, ta tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp, gạt hầu hết tầng lớp trên ra khỏi chính quyền. Tại xã Đồng Văn, tầng lớp trên bị gạt ra khỏi chính quyền, thay vào đó là những cán bộ Việt Minh tích cực được bầu vào Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Hành chính xã. Từ đây, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Hành chính xã mới thực sự là chính quyền của nhân dân các dân tộc. Đây là thắng lợi quan trọng của cuộc cải cách dân chủ mà Đảng ta tiến hành ở Đồng Văn.

Do ảnh hưởng sai lầm trong cải cách ruộng đất ở miền xuôi và quyền lợi chính trị, kinh tế của tầng lớp trên bị động chạm gay gắt nên chúng tìm mọi cách chống lại rất quyết liệt. Chúng câu kết với các phần tử phản động, bọn đặc vụ Tưởng Giới Thạch ra sức chống phá các chủ trương, chính sách của Đảng ta.

Trong quá trình thực hiện cải cách dân chủ ở Đồng Văn, cấp uỷ, chính quyền tỉnh, huyện có tư tưởng nóng vội chủ quan, chưa đánh giá thấu suốt mọi vấn đề, nhất là phân tích khả năng phản ứng của tầng lớp trên. Các chủ trương công tác lớn như bầu cử - Thí điểm hợp tác xã - Tuyển quân theo luật - Giảm trồng thuốc phiện - Làm đường ô tô chưa được quán triệt, chuẩn bị tư tưởng cho quần chúng và tranh thủ sự ủng hộ của tầng lớp trên, nhân dân ở nhiều nơi chưa hiểu đã làm. Do đó bọn đặc vụ, phản động lợi dụng kích động quần chúng, lôi kéo tầng lớp trên chống lại chủ trương chính sách của Đảng, âm mưu nổi loạn cướp chính quyền. Máy bay Mỹ xuất hiện ở vùng biên giới Việt - Trung thả truyền đơn xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, kích động bọn phản động gây bạo loạn.

Ngày 30/11/1959 bọn phản động đưa 40 tên lên gác cổng trời, làm trận địa chiến đấu. Ngày 2/12/1959 bọn phản động ở cổng trời Cán Tỷ giữ 2 đoàn ngựa thồ hàng của tỉnh vào Đồng Văn, đuổi dân công quay trở lại. Ngày 4/12/1959 huyện Đồng Văn đưa đoàn cán bộ lên cổng trời giải giáp, chúng bắn chết 1 cán bộ công an huyện, bắn bị thương 1 cán bộ huyện đội. Từ ngày 5 đến 8/12/1959 bọn phản động hoạt động mạnh ở 16 xã vùng cao Đồng Văn, chúng ngăn chặn dân nộp thuế, đi họp, kích động lôi kéo dân quân theo chúng. Ngày 9/12/1959 bọn phản động chiếm nhiều nơi trong huyện, cuộc bạo động phản cách mạng đã thực sự nổ ra. Chúng tung ra khẩu hiệu '”Chống lên Hợp tác xã, chống bộ máy Chính quyền mới được bầu cử, chống giảm trồng thuốc phiện, không đi làm đường, không nộp thuế, không nộp súng”.

Ngày 12/12/1959, khi phiên chợ Đồng Văn đang lúc đông nhất, 2 toán phỉ theo 2 hướng tấn công vào thị trấn Đồng Văn. Công an Đồng Văn, dân quân tự vệ và nhân dân thị trấn đã anh dũng chiến đấu, bẻ gẫy cuộc tấn công liều lĩnh, hung bạo đó của phỉ. Trong khi tình hình Đồng Văn đang diễn biến phức tạp, nhiều nơi khác đã bị phỉ gây rối. Chúng đã đánh chiếm được các xã Bạch Đích, Phú Lũng, Lũng Phìn, Mông Nga, Nông Duệ, đánh chiếm đến đâu chúng cướp phá đến đó. Chúng lôi kéo, cưỡng bức nhân dân chống phá trật tự cách mạng đã thiết lập, củng cố trong nhiều năm. Cưỡng ép dân vào các trại tập trung, bọn phỉ còn ép dân cắt máu ăn thề trung thành với chúng.

Trùm phỉ Vàng Chúng Dình và đồng bọn hí hửng tưởng rằng sẽ đánh chiến Đồng Văn một cách dễ dàng, nhanh chóng như trở bàn tay. Chúng cho khoảng 200 tên chia thành 2 mũi tấn công vào thị trấn, vấp phải sức chống trả ngoan cường của công an, dân quân tự vệ và nhân dân trong thị trấn, bọn trùm phỉ vội vã điều thêm 300 tên nữa tăng cường tấn công. Nhưng sức mạnh dã man của bọn chúng một lần nữa đã bị chặn đứng trước tinh thần gang thép của các lực lượng và nhân dân thị trấn Đồng Văn. Mỗi cán bộ huyện là một tự vệ dũng cảm, phối hợp với công an và dân quân chiến đấu kiên cường, bẻ gẫy các đợt tấn công của bọn phỉ. Nhân dân các dân tộc thị trấn Đồng Văn, người nào việc nấy, tất cả cùng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Nhiều người đã lập công xuất sắc được khen thưởng tại mặt trận. Đó là bà Đoàn Thị Cầm, bà Nguyễn Thị Chỉ, bà Lương Thị Dẹt, chị Nguyễn Thị Ty, ông Lương Huy Ngọ… họ là những người dân lao động bình thường, nhưng nồng nàn tinh thần yêu quê hương, đất nước. Dùng vũ khí thô sơ, họ dũng cảm tham gia chiến đấu. Họ tự nguyện về lấy gạo của nhà mình để nấu cơm cho các chiến sỹ ăn. Lúc cần, họ là những chiến sĩ tải thương tận tụy, hết lòng thương yêu chăm sóc chiến sĩ.

Ngoài việc trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nhân dân còn hiến kế cho dân quân chiến đấu, bảo vệ thị trấn Đồng Văn. Bà Lương Thị Tiến, mẹ của đồng chí Bế Ru[4] nói với đồng chí Lương Mãn Tuyên[5] và đồng chí Lục văn Hương là 2 cán bộ trong Ban Chỉ huy dân quân thị trấn Đồng Văn: “Ta sống ở Đồng Văn từ nhỏ, ta biết mỗi khi loạn lạc, ai chiếm được Đồn Cao, người đó sẽ thắng. Các anh đem ngay lá cờ tổ quốc treo ngay lên đỉnh Đồn Cao rồi chỉ huy dân quân giữ cho được vị trí ấy”.

Nghe anh Tuyên báo cáo, đồng chí Lương Mã Lâm, Chủ tịch thị trấn đồng ý nhận lá cờ tổ quốc (từ tay bà Tiến, anh Tuyên và anh Hương) và treo lên Đồn Cao, đồng thời tổ chức lực lượng quyết giữ Đồn Cao. Sau đó, quả nhiên bọn phỉ đã nhiều lần đánh chiếm Đồn Cao nhưng các cuộc tấn công của chúng đã bị dân quân bẻ gãy.

Bọn phỉ bao vây, bịt kín các ngả đường từ thị trấn về các địa phương, lực lượng chiến đấu bảo vệ thị trấn gặp nhiều khó khăn. Khó khăn nhất là đạn sắp hết. Các chiến sỹ phải tiết kiệm từng viên đạn, phải dùng lưỡi lê và vũ khí thô sơ chiến đấu giáp lá cà với địch.

Đúng lúc đó, tiểu đội công an nhân dân vũ trang đồn Săm Pun do hạ sỹ Mai Xuân Hùng chỉ huy đã kịp đến chi viện. Trên đường tuần tra bảo vệ địa bàn giáp Đồng Văn nghe nhiều tiếng súng nổ dữ dội ở hướng thị trấn Đồng Văn, đồng chí Mai Xuân Hùng đã hội ý với tiểu đội phó Giàng Mí Qủa, nhận định địch đang tấn công thị trấn Đồng Văn và thống nhất ý chí đưa tiểu đội vượt sông Nho Quế tăng cường chi viện cho các lực lượng đang chiến đấu bảo vệ thị trấn. Giàng Mí Qủa đồng ý, cả tiểu đội cùng hạ quyết tâm. Phải khắc phục nhiều khó khăn các anh mới vượt được sông Nho Quế, vừa lên được bờ các anh vấp ngay một ổ đề kháng của bọn phỉ. Tiểu đội phó Giàng Mí Qủa có sáng kiến nấp sau một tảng đá, chụp chiếc mũ cứng lên đầu nòng súng rồi nâng lên hạ xuống thập thò. Bọn phỉ tưởng các chiến sỹ công an nhân dân vũ trang đang chuẩn bị xuất kích từ hướng đó, liền bắn như vãi đạn về phía Qủa. Được Qủa mưu trí, nghi binh tốt, Mai Xuân Hùng đưa tiểu đội lợi dụng địa hình, cơ động nhanh, đánh vu hồi bọn phỉ. Quá bất ngờ, bọn phỉ tại ổ đề kháng này bị tiêu diệt gần hết. Còn một vài tên hoảng hốt chạy sang hướng khác. Các lực lượng đang chiến đấu và nhân dân thị trấn vui mừng chào đón tiểu đội Mai Xuân Hùng. Sức mạnh tinh thần của lực lượng chiến đấu như được nhân lên nhờ sự chi viện kịp thời của các chiến sĩ công an nhân dân vũ trang.

Trong những ngày phỉ bao vây thị trấn Đồng Văn, bọn chúng kiểm soát gắt gao tất cả các con đường lớn nhỏ nối thị trấn với các địa phương khác. Cụ Tạ Hồ Thầu, chuyên nghề kim hoàn ở thị trấn Đồng Văn xung phong đi quan sát tình hình địch. Cụ đem theo chiếc cân tiểu ly bị hỏng, lấy cớ đem đi sửa chữa để che mắt địch. Kết quả cụ đã nắm được tình hình và báo cáo với đồng chí Tuyên: “Phỉ đóng quân, bao vây chặt thị trấn, các hướng khác, lực lượng của chúng cũng mỏng thôi. Các anh có thể cho lực lượng mạnh chọc thủng một lối mà ra để xin cấp trên chi viện”.

Đồng chí Tuyên và đồng chí Phùng Tiến, Chỉ huy trưởng dân quân tự vệ thị trấn Đồng Văn tổ chức một tổ dân quân có các chiến sỹ công an nhân dân vũ trang đi cùng, đêm hôm ấy, bí mật tiếp cận địch ở hướng phụ. Quá trình tiếp cận địch, ta đã bắt cóc được tên phỉ có tên là Sùng Chá Lử. Hắn vốn là dân bản Má Ủ, bị phỉ lôi kéo theo chúng. Một số dân quân do căm thù bọn phỉ đã gây bao tội ác với nhân dân, đòi xử tên Lử.

Ban lãnh đạo và chỉ huy dân quân giải thích về chính sách khoan hồng của Đảng để ổn định tư tưởng cho số dân quân đó. Các anh nói về âm mưu “Thổ phỉ hóa nhân dân vùng cao biên giới” của địch… và đường lối tiễu phỉ của Đảng.

Được giáo dục tại chỗ, lại được hưởng lượng khoan hồng, tên Lử khóc và ăn năn hối lỗi, xin được lập công chuộc tội. Lử đã được toại nguyện. Ban Chỉ huy mặt trận bảo vệ Đồng Văn đã giao cho Lử mang thư, vượt vòng vây của phỉ đến đồn công an nhân dân vũ trang Phố Bảng xin tiếp tế đạn. Lử đã vượt qua nguy hiểm, đi đến nơi về đến chốn. Hơn 200 viên đạn Lử đem về đã kịp thời phục vụ chiến đấu. Lử được khen ngợi và được giao tiếp nhiệm vụ đem thư vượt vòng vây đến đồn công an nhân dân vũ trang Lũng Làn xin chi viện. Lử lại hoàn thành nhiệm vụ. Anh vội quay về thị trấn, nhưng khi về đến đỉnh Mã Pì Lèng, anh sa vào ổ phục kích của phỉ. Chúng đã dã man giết hại anh rồi quăng xác xuống hang sâu.

Nhận tin, đồn công an nhân dân vũ trang Lũng Làn cử thượng sỹ Hoàng Thắng Phù chỉ huy tiểu đội vũ trang hành quân gấp đến chi viện cho lực lượng chiến đấu bảo vệ thị trấn Đồng Văn. Tiểu đội đã mưu trí vượt qua vòng vây của phỉ vào thị trấn, phối hợp với tiểu đội Mai Xuân Hùng và các lực lượng khác chiến đấu.

Ngày 23/12/1959, tiểu đoàn 12 công an nhân dân vũ trang, trung đoàn 246 quân khu Việt Bắc, đại đội 10 tỉnh đội Hà Giang và phân đội 55 công an nhân dân vũ trang Cao Bằng, sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiễu phỉ ở Mèo Vạc, Sơn Vĩ đã hành quân hỏa tốc đến thị trấn Đồng Văn. Quân ta phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, trong đánh ra, ngoài đánh vào. Bọn phỉ bao vây thị trấn Đồng Văn không chống đỡ nổi sức tấn công vũ bão của quân ta. Trùm phỉ Vàng Chúng Dình và đồng bọn hoảng hốt chạy vào vùng Mã Sồ, giáp biên giới.

Từ  tháng 12/1959 đến khi bắt hết bọn đầu sỏ phỉ ở Đồng Văn, tình hình an ninh được ổn định. Tháng 8 năm 1962 cuộc vận động cải cách dân chủ trên địa bàn huyện Đồng Văn cơ bản hoàn thành, chế độ Thổ ty phong kiến bị ta đánh đổ tận gốc rễ, các ổ nhóm thổ phỉ, phản động do Pháp, Mỹ, Tưởng gây dựng bị dẹp tan, đồng bào các dân tộc vươn lên làm chủ bản làng nương rẫy và được sống một cuộc sống thanh bình yên ổn làm ăn trong sự chăm lo của Đảng và chính quyền cách mạng. Trong quá trình vận động cải cách dân chủ, lực lượng dân quân du kích các thôn, bản được củng cố phát triển theo yêu cầu “vững mạnh, tin cậy” (tin cậy về chính trị, vững mạnh về tổ chức, huấn luyện, trang bị) làm nòng cốt trong phong trào bảo vệ trật tự trị an và nòng cốt xung kích trong lao động sản xuất, xây dựng tổ đổi công và Hợp tác xã.

 Thành công lớn nhất trong việc đập tan cuộc bạo loạn phản cách mạng ở Đồng Văn (1959-1960) là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu rõ bộ mặt xấu xa của bọn đặc vụ Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch và bọn phản động bấy lâu lừa bịp họ chống lại cách mạng. Họ cũng ý thức được vai trò quần chúng của mình trong cuộc đấu tranh giai cấp vừa mang tính dân tộc đang diễn ra ở miền núi. Nhiều cụ già, phụ nữ, kể cả những người mới đây làm phỉ đã tự nguyện đứng vào đội ngũ quần chúng cách mạng.

Tháng 9/1960 Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đề ra kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, phát triển kinh tế quốc dân (1961-1965). Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là “Chuyển sang lấy xây dựng CNXH là trọng tâm, thực hiện một bước công nghiệp hóa XHCN, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH, đồng thời hoàn thành cải tạo XHCN làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta trở thành một nền kinh tế XHCN”. Nhiệm vụ chính trị của Chi bộ, chính quyền xã Đồng Văn trong giai đoạn 1961-1965 là xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị để lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, xây dựng CNXH và chi viện cách mạng miền Nam, đấu tranh thống nhất đất nước.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III, được sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện Đồng Văn, Chi bộ Đảng xã Đồng Văn đã tập trung lãnh đạo nhân dân xây dựng quan hệ sản xuất mới, củng cố và xây dựng tổ đổi công chuẩn bị tiến tới thành lập Hợp tác xã nông nghiệp; phát triển văn hóa xã hội, giữ gìn an ninh trật tự xã hội.

Trong xây dựng Đảng, Chi bộ Đảng đã tích cực hưởng ứng cuộc vận động chỉnh đốn Đảng của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương với phương châm “Chỉnh huấn tốt, công tác tốt, sản xuất tốt”, từng bước nâng cao nhận thức, giác ngộ cách mạng cho đảng viên, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng CNXH, chi viện cho cách mạng miền Nam đánh Mỹ, thống nhất Tổ quốc.

Ngày 22/8/1962 Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Đồng Văn lần thứ II được tổ chức. Đại hội đã xác định mục tiêu nhiệm vụ cụ thể của huyện Đồng Văn trong giai đoạn mới là: Tập trung phát triển nông nghiệp như lúa, ngô, chăn nuôi; phát triển lâm nghiệp, các cây dược liệu; phát triển mạng lưới giao thông, thương nghiệp, tài chính và sự nghiệp văn hoá - giáo dục. Nhiệm vụ cụ thể trước mắt của Đảng bộ huyện là tiếp tục hoàn thành cải cách dân chủ kết hợp với tổ chức lại sản xuất. Tăng cường mở rộng phong trào đổi công, từng bước đưa lên đổi công thường xuyên chấm điểm chuẩn bị thành lập Hợp tác xã nông nghiệp. Do những khó khăn đặc thù ở Đồng Văn, phong trào xây dựng Hợp tác xã có phần chậm hơn các huyện vùng thấp. Đến hết năm 1962 toàn huyện mới có 3 Hợp tác xã nông nghiệp ở 3 xã là Yên Minh, Mậu Duệ và Đồng Văn.

Để phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, đặc biệt là điều kiện về dân cư và thuận lợi cho sự lãnh chỉ đạo của Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội hoạt động có hiệu quả, ngày 13/12/1962 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 21-QĐ/CP chia huyện Đồng Văn thành 3 huyện (Đồng Văn, Yên Minh và Mèo Vạc). Xã Đồng Văn vẫn trực thuộc huyện Đồng Văn. Thời điểm này, xã Đồng Văn có 15 thôn (gồm các thôn: Quyết Tiến, Đồng Tâm, Đồng Thanh, Sảng Mà sao, Quán Dín Ngài, Má Ủ, Lùng Lủ, Thiên Hương, Má Pắng A, Má Pắng B, Tù Sán, Sì Pài, Pố Lổ, Má Lủ, Tà Làng).

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ II, Chi bộ xã Đồng Văn đã lãnh đạo nhân dân tích cực đẩy mạnh sản xuất, xóa mù chữ, bảo vệ trị an, thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), Chi bộ Đảng xã Đồng Văn đã tập trung nghiên cứu các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về CNXH và kế hoạch 5 năm, xây dựng kiện toàn hệ thống chính trị từ xã tới thôn, bản; xác định các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, chỉ đạo các cấp các ngành vận động nhân dân đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, nhằm nâng cao đời sống nhân dân và đóng góp nghĩa vụ cho Nhà nước.

Đối với nhiệm vụ xây dựng tổ đổi công và Hợp tác xã, Chi bộ chủ trương tiếp tục củng cố và mở rộng các tổ đổi công dưới các hình thức, như: đổi công theo vụ, đổi công thường xuyên và đổi công bình công chấm điểm. Nhiệm vụ trước mắt là tiến hành tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng hiểu rõ đây là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh tư tưởng giữa CNXH và chủ nghĩa tư bản. Chi bộ chỉ đạo tiến hành theo trình tự 3 bước với 3 hình thức từ thấp đến cao, đó là đổi công theo vụ việc, đổi công thường xuyên và đổi công bình công chấm điểm để làm cơ sở cho việc xây dựng các Hợp tác xã. Xã tập trung cán bộ xuống các xóm, bản củng cố các tổ đổi công kết hợp với phát triển sản xuất, tổ chức tuyên truyền, giáo dục nhân dân về phương châm xây dựng tổ đổi công là củng cố tổ đổi công để phát triển sản xuất. Từ phong trào xây dựng tổ đổi công, phong trào tương trợ, giúp đỡ nhau, đặc biệt là giúp đỡ các gia đình khó khăn, neo đơn ngày càng được chú trọng.

Công tác văn hóa - giáo dục được chú trọng đặc biệt. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng đã vận động nhân dân thực hiện đời sống mới, xóa bỏ các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan. Phong trào bình dân học vụ, xóa mù chữ liên tục được duy trì tại các thôn, bản, hợp tác xã. Đến năm 1965 đã có 85% dân số được xóa mù chữ. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng, mọi người, mọi nhà đều cam kết thực hiện “ăn chín, uống sôi” và di dời chuồng gia súc ra xa nhà.

Nhiệm vụ mở đường giao thông phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh là yêu cầu tất yếu của giai đoạn cải tạo và xây dựng CNXH (1960-1965). Do làm tốt công tác tuyên truyền vận động, công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH được nhân dân hiểu, nắm vững, hợp “ý Đảng lòng dân”, đã khơi dậy được khí thế sôi nổi trên khắp các công trường. Trên công trường mở đường Hạnh Phúc (Hà Giang - Đồng Văn - Mèo Vạc), cấp uỷ, chính quyền xã đã huy động dân quân du kích các thôn, bản làm nòng cốt, các tầng lớp nhân dân sôi nổi hưởng ứng với khẩu hiệu “Vì CNXH, vì miền Nam ruột thịt”. Hàng trăm nam nữ thanh niên các dân tộc hăng hái làm thêm giờ, các thôn, bản có trục đường đi qua, nhân dân tự nguyện tháo dỡ nhà cửa và dùng mọi phương tiện để tham gia làm đường. Nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn đã đóng góp hàng ngàn ngày công làm con đường Hạnh phúc (Quốc lộ 4C), góp phần to lớn vào thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh cho của 4 huyện vùng cao núi đá phía Bắc. Bên cạnh đó, các tuyến đường liên xã, liên thôn cũng được khai phá mở mang với sự đóng góp công sức chủ yếu của nhân dân.

Công tác bảo vệ trật tự trị an được cấp ủy, chính quyền xã coi trọng đặc biệt. Lực lượng công an viên được xây dựng rộng khắp tới thôn, bản, tổ đổi công và hợp tác xã. Đây là lực lượng xung kích bảo vệ trật tự trị an tại địa phương. Các hoạt động tuần tra, canh gác phòng chống âm mưu phá hoại của bọn phản cách mạng, bọn buôn lậu được nghiêm túc duy trì. Từ năm 1963, phong trào bảo vệ trị an được phát động rộng rãi trong quần chúng và gắn liền với nhiệm vụ phòng chống gián điệp, biệt kích, sẵn sàng đối phó với chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.

Tháng 8 năm 1964, Đảng bộ huyện Đồng Văn tiến hành Đại hội lần thứ IV. Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm vụ chủ yếu của Đảng bộ trong giai đoạn này là tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội và an ninh    quốc phòng để Đồng Văn cùng với các địa phương trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chi bộ Đảng xã Đồng Văn đã quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, chỉ đạo các thôn, bản xây dựng và hoàn thiện Hợp tác xã nông nhiệp, vì theo quan niệm của Đảng ta lúc đó, xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp là xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN cho nên bằng bất kỳ giá nào cũng phải thực hiện bằng được mô hình Hợp tác xã, mô hình làm ăn tập thể ở nông thôn. Trong thực tế, xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp là một nội dung quan trọng của cuộc cải cách dân chủ, xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất ở nông thôn. Từ đây, phong trào xây dựng Hợp tác xã bắt đầu phát triển mạnh.

Cuối năm 1964 chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam bị phá sản, chúng chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam, phát động chiến tranh phá hoại miền Bắc. Ngày 5/8/1964 đế quốc Mỹ cho máy bay, tàu chiến đánh phá miền Bắc nhằm phá hoại công cuộc xây dựng CNXH và ngăn chặn miền Bắc chi viện cho miền Nam. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ XI, khóa III (5/1965) đã quyết định chuyển hướng hoạt động kinh tế - xã hội của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến. Nhiệm vụ của miền Bắc lúc này là vừa xây dựng CNXH, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và chi viện cho cách mạng miền Nam.

Trải qua thời kỳ cải tạo và xây dựng CNXH (1954-1965), dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn đã giành được những thắng lợi to lớn trên nhiều mặt. Kinh tế xã hội phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể, quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc. Trong công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH đã xoá bỏ về cơ bản tàn tích của chế độ Thổ ty phong kiến, xây dựng thành công chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng con người mới XHCN. Tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và lực lượng dân quân du kích được củng cố vững mạnh.

          (Còn nữa)

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.612.

[2] Sự kiện này đã được thống nhất tại Hội nghị Hội thảo ngày 17/9/2015 ở thị trấn Đồng Văn.

   [3]  Sau hoà bình lập lại (1954), huyện Đồng Văn còn có 13 xã chưa có chính quyền nhân dân, mà vẫn nằm dưới sự khống chế của các thế lực Thổ ty địa phương - Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn: Trang 72.

[4] Lúc đó đồng chí Bế Ru công tác ở một cơ quan Trung ương.

[5] Đồng chí Tuyên sau này là giáo viên trường Phổ thông Trung học Lê Hồng Phong, tỉnh Hà Giang.

 


Tin khác