Liên kết website

Thống kê truy cập

Giới thiệu

Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Đồng Văn

20/09/2019 00:00 88 lượt xem

TTTĐT: Thị trấn Đồng Văn được thành lập năm 2009 trên cơ sở xã Đồng Văn theo Nghị định số 11/NĐ-CP, ngày 31/3/2009 của Chính phủ; đơn vị hành chính năm 2015 của thị trấn gồm 22 thôn, tổ dân phố (7 tổ dân phố, 15 thôn, trong đó 3 thôn giáp biên giới: Mã Tìa, Mã Pắng, Thiên Hương), dân số có 6.555 người và 17 dân tộc anh em cùng chung sống. Đồng Văn là thị trấn biên giới, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của huyện Đồng Văn và Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn.

ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỒNG VĂN

ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN ĐỒNG VĂN

*

 

 

TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG

CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN

THỊ TRẤN ĐỒNG VĂN

(1945-2015)

 

Hà Giang, năm 2015

 

LỜI GIỚI THIỆU

 

Thị trấn Đồng Văn được thành lập năm 2009 trên cơ sở xã Đồng Văn theo Nghị định số 11/NĐ-CP, ngày 31/3/2009 của Chính phủ; đơn vị hành chính năm 2015 của thị trấn gồm 22 thôn, tổ dân phố (7 tổ dân phố, 15 thôn, trong đó 3 thôn giáp biên giới: Mã Tìa, Mã Pắng, Thiên Hương), dân số có 6.555 người và 17 dân tộc anh em cùng chung sống. Đồng Văn là thị trấn biên giới, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của huyện Đồng Văn và Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn.

Trải qua các giai đoạn lịch sử (1945-2015), dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ Đảng xã Đồng Văn (từ tháng 9/1949), Đảng bộ xã Đồng Văn (từ tháng 7/1989), Đảng bộ thị trấn Đồng Văn (từ tháng 3/2009), nhân dân các dân tộc trên địa bàn thị trấn luôn nêu cao tinh thần đoàn kết đấu tranh cách mạng, tích cực lao động sản xuất, phục vụ chiến đấu, đóng góp nhiều sức người, sức của trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và thời kỳ bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhân dân các dân tộc thị trấn Đồng Văn luôn năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, học tập công tác, xây dựng thị trấn Đồng Văn vững về chính trị, giàu về kinh tế, sáng về văn hóa - xã hội, mạnh về quốc phòng - an ninh.

Để tổng kết kinh nghiệm, ôn lại truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị trấn Đồng Văn, rút ra những bài học lịch sử bổ ích phục vụ công tác nghiên cứu, chỉ đạo và giáo dục truyền thống lịch sử. Đáp ứng yêu cầu của cán bộ, đảng viên và nhân dân, Ban Thường vụ Đảng uỷ thị trấn chỉ đạo nghiên cứu biên soạn cuốn “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Đồng Văn (1945-2015)”.  Cuốn sách giới thiệu khái quát về sự hình thành, phát triển của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị trấn Đồng Văn qua các thời kỳ lịch sử (1945-2015), nêu bật quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và những bài học kinh nghiệm của Đảng bộ trên tất cả các mặt, những đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc, làm tài liệu nghiên cứu, giáo dục bồi dưỡng cho cán bộ đảng viên và nhân dân các dân tộc, lòng tự hào về truyền thống cách mạng. Trên cơ sở đó kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng của các thế hệ cha anh, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

   Trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn, Ban Chấp hành Đảng bộ thị trấn luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Thường trực Huyện ủy, sự phối hợp, giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Huyện uỷ và sự chỉ đạo, giúp đỡ của về chuyên môn của Phòng Lý luận Chính trị - Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy cùng với sự đóng góp ý kiến quý báu của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã từng tham gia hoạt động, công tác qua các thời kỳ trên địa bàn thị trấn.

   Mặc dù Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng, với tinh thần trách nhiệm cao, nhưng trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, nguồn tài liệu thành văn bị thất lạc nhiều, các nhân chứng lịch sử tuổi đã cao, trí nhớ có phần suy giảm... Vì vậy, nội dung cuốn sách không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự tham gia góp ý của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau.

Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, Ban Thường vụ Đảng ủy thị trấn Đồng Văn xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo và giúp đỡ quý báu của các cơ quan, đơn vị, cá nhân đã giúp đỡ để nội dung cuốn sách được đảm bảo hơn về tính Đảng, tính khoa học...

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Đồng Văn (1945-2015)” đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân thị trấn cùng bạn đọc.

                                               

T/M BCH ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN

BÍ THƯ

HOÀNG NGỌC LINH

 

Phần một

KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI   VÀ CON NGƯỜI THỊ TRẤN ĐỒNG VĂN

 

Thị trấn Đồng Văn nằm ở vị trí địa lý 23 độ 17’ vĩ Bắc, 105 độ 19 ’ kinh Đông. Là Thị trấn biên giới, nằm ở trung tâm Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn. Phía Đông giáp xã Thượng Phùng (huyện Mèo Vạc), phía Tây giáp xã Thài Phìn Tủng (huyện Đồng Văn), phía Nam giáp các xã Thài Phìn Tủng, Tả Phìn, Tả Lủng (huyện Đồng Văn) và xã Pải Lủng (huyện Mèo Vạc), phía Bắc giáp xã Ma Lé (huyện Đồng Văn) và trấn Điền Bồng, Ma Ly Pho, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Diện tích đất tự nhiên của thị trấn là 3.030,65 ha. Trong đó, đất nông nghiệp có 1.692,50 ha, đất lâm nghiệp có 714,22 ha, đất chưa sử dụng được do có diện tích núi đá lớn là 1.229,08 ha. Trên địa bàn thị trấn có nhiều loại đất khác nhau, như: đất đỏ bazan, đất nâu, đất pherarit, đất xám bạc màu.

Thị trấn Đồng Văn có chiều dài đường địa giới hành chính là 37.634m. Trong đó tuyến Đồng Văn - Thượng Phùng dài 6.538m, tuyến Đồng Văn - Pải Lủng (huyện Mèo Vạc) dài 5.797m, tuyến Đồng Văn - Ma Lé dài 3.995m, tuyến Đồng Văn - Thài Phìn Tủng dài 6.959m, tuyến Đồng Văn - Tả Phìn dài 1.478 m, tuyến Đồng Văn - Tả Lủng dài 2.889m. Thị trấn có đường biên giới giáp Trung Quốc dài 1,8 km.

Địa hình thị trấn bị chia cắt tương đối mạnh, chủ yếu là đồi, núi đá dốc. Độ cao trung bình là 1.200m so với mực nước biển. Thị trấn có nhiều núi đá cao, độ dốc lớn. Hàng năm, vào mùa mưa lũ lượng đất dễ bị xói mòn, do đó diện tích đất bạc màu trên địa bàn thị trấn ngày càng tăng.

Thị trấn Đồng Văn nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9. Mùa đông kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau. Mùa đông khô hạn gây nên tình trạng thiếu nước phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất. Hàng năm, nhiệt độ trung bình đạt từ 20-23 độ C. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của thị trấn tương đối khắc nghiệt, gây ra không ít khó khăn cho việc phát triển kinh tế - xã hội.

Về giao thông, trước cách mạng tháng 8/1945, hệ thống giao thông vận tải hầu như chưa có gì, chủ yếu là đường mòn đi bộ cho người và ngựa. Đến nay ngoài trục giao thông chính là Quốc lộ 4C, hệ thống đường giao thông cơ giới liên xã, liên thôn đã được xây dựng cơ bản, 100% các thôn có đường liên thôn loại B, 12/15 thôn có đường ô tô đến trung tâm thôn, rất thuận lợi cho tổ chức sản xuất, chiến đấu, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Tuy nhiên, trong mùa mưa, lũ quét thường xảy ra, gây ra tình trạng sạt lở đường và ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.

Thị trấn Đồng Văn có nhiều điểm di tích văn hóa du lịch nổi tiếng như: Phố cổ Đồng Văn, Đồn Cao, làng văn hoá Thiên Hương, rừng đa Thiên Hương, Mã Tìa; các miếu thờ đầu nguồn nước, quan hoàng, đền thờ Đại thế Quan Minh, Quan âm Bồ tát... hàng năm, các điểm di tích văn hóa du lịch đã thu hút hàng chục ngàn du khách thập phương ở trong và ngoài nước đến tham quan, du lịch. Bên cạnh đó, thị trấn Đồng Văn là địa bàn chứa đựng nhiều giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc như: Mông, Dao, Cờ Lao, Tày, Giấy, Lô Lô, Kinh... Dân tộc Mông với phong tục thờ cúng ông bà, tổ tiên. Đặc biệt, tiếng khèn của đồng bào dân tộc Mông đã trở thành một loại nhạc cụ truyền thống và thu hút được sự quan tâm của nhiều du khách khi đặt chân đến đây. Người dân Thị trấn Đồng Văn rất thân thiện và hiếu khách. Những phiên chợ Đồng Văn… cùng với các phong tục tập quán, các lễ hội đặc sắc của đồng bào dân tộc đã làm bao du khách say đắm khi đến với nơi đây.

Trải qua những năm tháng sinh sống và phát triển sản xuất, người dân thị trấn Đồng Văn sống hòa quyện cùng với đá: dọn đá để dựng nhà, để có đất trồng trọt, khoét đá để tìm dòng nước ngọt, dựng đá thành tường rào bao quanh làng xóm. Đá giữ nước, giữ đất để canh tác ruộng bậc thang. Trong những năm kháng chiến, người dân đã dựng đá  làm thành lũy để bảo vệ thôn, xóm, bảo vệ biên cương Tổ quốc. Trong phát triển sản xuất, người dân Đồng Văn tích cực khai phá, cải tạo đất đai tạo ra những thửa ruộng bậc thang, những nương rẫy tốt. Trồng trọt và chăn nuôi đã trở thành nghề chính của nhân dân. Cây ngô là cây lương thực chính được nhân dân thị trấn tập trung phát triển đồng thời các cây ăn quả, như: táo, đào, lê… và các loại cây rau, đậu khác, như: đậu, khoai, lanh, ý dĩ, tam giác mạch, riềng… cũng được phát triển. Trong chăn nuôi, đồng bào các dân tộc thị trấn đã tận dụng nguồn đất rải rác trên các mỏm đá để trồng cỏ phục vụ chăn nuôi gia súc.

Mỗi đồng bào các dân tộc trên địa bàn thị trấn cũng có những nét đặc trưng, thế mạnh riêng trong phát triển sản xuất: đồng bào dân tộc Mông chủ yếu là làm nương trồng ngô và hoa màu; đồng bào dân tộc Tày, Giấy chủ yếu là làm lúa nước và ngô, kết hợp các nghề phụ; một số dân tộc Kinh, Tày làm nghề buôn bán nhỏ ở trung tâm thị trấn. Đặc biệt, người dân thị trấn Đồng Văn rất thành thạo và khéo léo trong nghề thủ công như đan lát mây tre, đặc biệt nghề dệt vải từ sợi lanh của chị em phụ nữ đã tạo nên những bộ trang phục đặc trưng của dân tộc. Sản phẩm hàng hóa từ nghề dệt vải đã thu hút được nhiều khách du lịch khi đặt chân đến đây

   Đã bao đời nay, đồng bào các dân tộc thị trấn Đồng Văn cư trú theo quan hệ huyết thống hoặc sống xen kẽ với nhau. Người dân Đồng Văn luôn giữ gìn truyền thống đoàn kết, tinh thần dũng cảm đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Bao thế hệ người Đồng Văn đã mài sắc ý chí căm thù, nêu cao tinh thần quật khởi trước các thế lực phong kiến cường quyền áp bức bóc lột và thực dân, phát xít xâm lược. Đó là nét tính cách truyền thống thẳng thắn và trung thực, hiên ngang kiên cường và bất khuất của con người nơi đây. Điển hình cho tinh thần đấu tranh chống cường quyền áp bức là đồng bào các dân tộc theo các thủ lĩnh của mình để chống lại các thế lực cát cứ phong kiến. Khi thực dân Pháp đặt chân lên vùng đất Đồng Văn, nhân dân Đồng Văn đã đứng lên đánh trả quyết liệt để bảo vệ chủ quyền quê hương mình. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh Sùng Mý Chảng năm 1911-1912 ở xã Đồng Văn. Người thủ lĩnh này đã tập hợp quần chúng dấy binh đánh bại lực lượng của thực dân Pháp, lấy núi Tù Sán làm căn cứ khởi nghĩa.

Có thể khẳng định, tinh thần đoàn kết gắn bó, kiên cường trong lao động sản xuất, kiên quyết đấu tranh chống ngoại xâm chính là cơ sở để gắn kết các dân tộc trong cộng đồng cùng đấu tranh để sinh tồn và phát triển. Tinh thần đó của đồng bào các dân tộc thị trấn càng được phát huy cao độ kể từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ lối, dẫn đường.

   Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Nhân dân vui mừng thoát khỏi cảnh nô lệ, được làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ đất nước. Thời gian này, thị trấn Đồng Văn hình thành một số làng dân cư sống rải rác ở xung quanh các triền núi cao với khoảng hơn một trăm hộ. Đời sống của người dân hết sức khó khăn, diện tích đất sản xuất rất ít do chưa được cải tạo, khai phá nhiều.

Thời điểm Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Đồng Văn gồm 5 thôn: Chúng Mung, Sảng Ma Sao, Đậu Chúa, Má Ú, Khai Hoang. Năm 1961, xã Đồng Văn đã có 17 thôn. Đến năm 1991, có 22 thôn gồm: Quyết Tiến, Đồng Tâm, Đồng Thanh, Đoàn Kết, Xóm Mới, Ngài Lủng, Tù Sán, Pố Lổ, Sì Phài, Má Pắng, Má Tìa, Khai Hoang, Thiên Hương, Lài Cò, Má Lủ, Bản Mồ, Lùng Lú, Má Ú, Quán Dín Ngài, Đậu Chúa, Chúng Mung, Sảng Ma Sao. Trung tâm xã Đồng Văn trở thành trung tâm của huyện Đồng Văn từ ngày 11/12/1992, nơi đóng các cơ quan của Huyện ủy, HĐND, UBND, các ngành các cấp của huyện Đồng Văn. Trải qua các giai đoạn phát triển về địa giới hành chính, đến năm 2009, thị trấn Đồng Văn được thành lập gồm 22 thôn, tổ dân phố (7 tổ dân phố, 15 thôn, trong đó có 3 thôn giáp biên giới).

Dân số xã Đồng Văn được phát triển qua các thời kỳ: năm 1962 có 285 hộ/1.347 nhân khẩu; đến năm 1991 tăng lên 672 hộ/3.953 nhân khẩu; năm 2014 tăng lên 1.505 hộ/6.555 nhân khẩu với 17 dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó, dân tộc Mông chiếm 42,85%, dân tộc Kinh chiếm 18,93%, dân tộc Tày chiếm 13,62%, dân tộc Giấy là 12,69% và các dân tộc ít người khác.

Hệ thống chính trị của xã luôn được củng cố kiện toàn, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Từ Chi bộ Đảng xã Đồng Văn với 4 đảng viên thành lập (năm 1949) đến nay đã phát triển thành Đảng bộ thị trấn Đồng Văn; năm 2015, toàn Đảng bộ thị trấn gồm 361 đảng viên, 29 chi bộ trực thuộc: 7 Chi bộ tổ dân phố, 15 Chi bộ thôn bản, 1 Chi bộ cơ quan, 4 Chi bộ trường học, 1 Chi bộ quân sự thị trấn, 1 Chi bộ trạm y tế.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự nỗ lực, vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, Đảng bộ tỉnh, huyện qua các thời kỳ, đặc biệt là thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới vào điều kiện thực tiễn cụ thể của địa phương qua các giai đoạn cách mạng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng nâng cao, điều kiện kinh tế -  xã hội không ngừng phát triển. Cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm) được đầu tư xây dựng cơ bản. Nhân dân đã được hưởng những phúc lợi xã hội của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2015, 100% các thôn, bản đều được xem truyền hình và được phủ sóng dịch vụ viễn thông, trên 70% hộ có ti vi, 80% số hộ có máy điện thoại di động, 30% số hộ sử dụng dịch vụ Internet.

Văn hóa – xã hội trên địa bàn thị trấn từng bước được nâng cao, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư được thực hiện và đạt kết quả tích cực. Nếp sống văn hóa mới ngày càng xây dựng vững chắc... Tỷ lệ huy động học sinh đến trường đạt 98,89%, tỷ lệ học sinh khá, giỏi ngày càng nâng cao. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân không ngừng được nâng cao, nhiều dịch bệnh đã được đẩy lùi, như: quai bị, sốt và ho.

Đến nay, trên địa bàn Thị trấn có 1 Hợp tác xã khai thác đá làm đồ mỹ nghệ với nhiều sản phẩn được du khách ưa thích, 4 cơ sở sản xuất gạch bê tông và vật liệu xây dựng, 1 xưởng sửa chữa ô tô, 7 cửa hàng sửa chữa xe máy; 6 cơ sở hàn xì, 35 công ty, Hợp tác xã dịch vụ thương mại và một số nhà nghỉ, khách sạn… Tuy nhiên, do điều kiện địa hình phức tạp, thời tiết, khí hậu diễn biến thất thường, rét đậm, rét hại, mưa đá, lốc xoáy thường xuyên xảy ra, thiếu đất canh tác, thiếu nước sinh hoạt, trình độ dân trí không đồng đều nên tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo có nguy cơ tái nghèo cao; một bộ phận quần chúng nhân dân còn tư tưởng trông trờ, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước, chưa nỗ lực vươn lên trong xóa đói giảm nghèo.

(Hết phần 1)


Tin khác