Liên kết website

Thống kê truy cập

Giới thiệu

Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Đồng Văn (Tiếp phần 2)

20/09/2019 00:00 66 lượt xem

TTTĐT: Thị trấn Đồng Văn được thành lập năm 2009 trên cơ sở xã Đồng Văn theo Nghị định số 11/NĐ-CP, ngày 31/3/2009 của Chính phủ; đơn vị hành chính năm 2015 của thị trấn gồm 22 thôn, tổ dân phố (7 tổ dân phố, 15 thôn, trong đó 3 thôn giáp biên giới: Mã Tìa, Mã Pắng, Thiên Hương), dân số có 6.555 người và 17 dân tộc anh em cùng chung sống. Đồng Văn là thị trấn biên giới, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của huyện Đồng Văn và Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn.

2. Chi bộ Đảng xã Đồng Văn lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất, xây dựng CNXH, góp phần đấu tranh chống Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc (1965-1975)

Bước sang năm 1965, máy bay Mỹ liên tục do thám bầu trời Hà Giang, thả tuyền đơn tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng. Ngày 10/8/1965 máy bay Mỹ bắn phá cầu Vĩnh Tuy làm một số thường dân chết và bị thương, quân dân Hà Giang trực tiếp đương đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Trước tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng, Chi bộ Đảng xã Đồng Văn đã tập trung nghiên cứu, quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng bộ các cấp về đường lối chiến tranh nhân dân, nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là nhiệm vụ phòng không nhân dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, biệt kích của đế quốc Mỹ. Trên cơ sở đó, Chi bộ xác định: chuyển hướng xây dựng kinh tế sang điều kiện có chiến tranh, tăng cường khả năng quốc phòng-an ninh bảo vệ hậu phương, chi viện sức người, sức của cho tiến tuyến đánh Mỹ; ổn định đời sống nhân dân và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, sẵn sàng chiến đấu đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch.

Trong phát triển kinh tế, Chi bộ đã tập trung lãnh chỉ đạo việc hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp, phát triển nông nghiệp toàn diện, chú trọng phát triển cây hoa màu, chăn nuôi, cây công nghiệp và lâm nghiệp. Dưới sự chỉ đạo sát sao của Chi bộ Đảng xã, những hộ lao động thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ được giác ngộ về chủ trương cải tạo XHCN và tự nguyện xin gia nhập các  Hợp tác xã thủ công nghiệp và Hợp tác xã mua bán. Nhờ đó, sản xuất trên địa bàn xã được đẩy mạnh phát triển, năng suất lúa mùa năm 1968 đạt 19 tạ/ha (tăng gần 1 tạ so với năm 1965), năng suất ngô đạt 7,5 tạ/ha. Đời sống của xã viên các tổ đổi công và Hợp tác xã được cải thiện đáng kể.   

Phong trào xây dựng Hợp tác xã ở xã Đồng Văn bắt đầu phát triển từ sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Việc xây dựng Hợp tác xã là hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của đại đa số nông dân, vì nó xóa bỏ được chế độ bóc lột ở nông thôn; người dân được giải phóng, trở thành người chủ ruộng đất, làm chủ xã hội; do đó chủ trương xây dựng Hợp tác xã của Đảng được nông dân nhiệt tình hưởng ứng, tự nguyện đem ruộng đất, trâu, bò vào làm ăn tập thể trong Hợp tác xã. Đến năm 1970 xã Đồng Văn căn bản hoàn thành xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp, bước vào giai đoạn phát triển, củng cố, hoàn thiện.

Qua nhiều lần củng cố tổ chức, quản lý Hợp tác xã, nhưng do điều kiện dân cư sống không tập trung, trình độ canh tác manh mún lạc hậu, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ thấp, quy mô Hợp tác xã nhỏ; Chia thu hoạch và nộp nghĩa vụ không để tích lũy; Trâu, bò, nông cụ thuộc sở hữu của Hợp tác xã nhưng giao trực tiếp cho cá nhân, hộ gia đình quản lý... nên phong trào Hợp tác xã chậm phát triển, Ban Quản trị các Hợp tác xã không xây dựng được kế hoạch, phương án sản xuất, không phát huy được vai trò quản lý sản xuất; Khâu thanh, quyết toán không rõ ràng, nhiều nơi nông dân tự ý lấy lại ruộng đất để làm ăn cá thể.

Trong giai đoạn 1965-1975, hưởng ứng cuộc vận động “Cải tiến quản lý Hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, phát triển nông nghiệp mạnh mẽ và vững chắc” và cuộc vận động “Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” do Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Tỉnh ủy đề ra, Chi bộ Đảng đã tuyên truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân đường lối chủ trương, quan điểm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, nhằm làm cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức được đường lối phát triển kinh tế của Đảng, điều kiện thuận lợi, khó khăn của địa phương. Từ đó tăng cường đoàn kết, nâng cao ý chí chiến đấu và niềm tin tưởng ở thắng lợi của sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh chống đế quốc Mỹ ở miền Nam. Thông qua đó, Chi bộ xã đã vận động và phát huy được mọi khả năng, mọi nhân tố tích cực của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức đoàn thể chính trị, các tổ đổi công và Hợp tác xã, tham gia đóng góp sức nguời, sức của vào phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.

Đồng thời, để thực hiện đạt mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra, Chi bộ xã đã phát huy những thế mạnh của miền núi cao. Trước hết, đẩy mạnh thực hiện công tác phát động tư tưởng nhằm giáo dục nâng cao tinh thần giác ngộ XHCN, tinh thần làm chủ tập thể cho xã viên. Việc nâng cao vai trò tiên phong gương mẫu cho đội ngũ cán bộ đảng viên, nhằm xây dựng ý chí tiến công cách mạng được tăng cường. Chi bộ xác định, khi tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân đã thông suốt thì việc hưởng ứng, tích cực đóng góp công sức vào sự nghiệp xây dựng CNXH gắn bó với Hợp tác xã, tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng, tích cực thi đua trong lao động sản xuất và tham gia các công tác xã hội khác sẽ được thực hiện đạt hiệu quả cao.

Từ phong trào cách mạng của quần chúng, công tác cải tiến quản lý Hợp tác xã nông nghiệp được duy trì thường xuyên, góp phần đẩy mạnh sản xuất. Trong hoạt động của mình, mỗi Hợp tác xã đều bàn bạc, thống nhất, xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ sản xuất và thực hiện 3 khoán, 3 quản trong nông nghiệp đồng thời tích cực thực hiện cải tiến kỹ thuật nhằm từng bước trang bị nông cụ cải tiến, xây dựng nhà kho, sân phơi, chuồng trại. Sau một thời gian thực hiện cuộc vận động, trình độ tổ chức quản lý, chỉ đạo sản xuất và phương thức ăn chia được đổi mới, công bằng hợp lý hơn trước, ý thức làm chủ của xã viên được nâng cao, mọi người đều yên tâm chăm lo công việc chung của Hợp tác xã. Công tác định canh, định cư và đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp và chuyển từ Hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao được hiện tốt. Nhiều hộ gia đình sống du cư đã chuyển về sống tập trung trong Hợp tác xã.

Chi bộ Đảng xã đã chỉ đạo gắn việc xây dựng Hợp tác xã với phong trào thi đua sản xuất nhằm ổn định đời sống nhân dân và hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đối với Nhà nước. Trong thời gian này, Hợp tác xã nông nghiệp từng bước được củng cố, hoàn thiện, là nhân tố chủ đạo thúc đẩy nền kinh tế tập thể phát triển. Quan hệ sản xuất mới XHCN ngày càng vững mạnh. Trong sản xuất, hiệu quả được nâng lên rõ rệt: năng suất ngô đạt 1,4 tấn/ha, lúa đạt 2,7 tấn/ha. Xã đã thành lập được 1 Hợp tác xã mua bán nhằm đáp ứng được nhu cầu cung cấp nhu yếu phẩm phục vụ đời sống, sản xuất, bao tiêu sản phẩm của người dân, tạo điều kiện cho nhân dân giao thương buôn bán. Hợp tác xã mua bán được thành lập đã thực hiện tốt công tác cung ứng và phân phối các mặt hàng thiết yếu cho xã viên, như: muối, dầu hỏa, vải, giấy viết, các loại công cụ sản xuất… hiện tượng tranh mua, tranh bán và đầu cơ, trục lợi những mặt hàng phân phối của Nhà nước không xảy ra.

Trong điều kiện vừa đẩy mạnh sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của địch ở địa bàn miền núi biên giới ít có khả năng chịu sự đánh phá trực tiếp của máy bay Mỹ nhưng lực lượng dân quân vẫn được duy trì thường xuyên ở mức trên 10% dân số. Các thôn, bản, Hợp tác xã đều thành lập được tổ, tiểu đội dân quân, vận động nhân dân đào hầm, hố phòng tránh máy bay địch bắn phá, phân tán, ngụy trang cho các cơ quan, trường học, kho lương thực... Tổ chức các đài quan sát báo động phòng không bằng kẻng, mõ, loa phát thanh. Hoạt động sinh hoạt của nhân dân dần đi vào nền nếp, đáp ứng yêu cầu thời chiến ở địa bàn miền núi. Lực lượng dân quân, công an viên luôn là lực lượng đi đầu, nòng cốt, xung kích trong sản xuất và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng Hợp tác xã, thực hiện nếp sống văn minh. Đặc biệt, lực lượng dân quân đã đóng góp hàng ngàn ngày công làm đường giao thông, mương dẫn nước, gương mẫu đi học và vận động nhân dân đi học bổ túc văn hoá. Mạng lưới giao thông trong xã từng bước được mở mang, thuận lợi cho phát triển kinh tế - văn hóa, củng cố quốc phòng - an ninh.

Đối với công tác tuyển quân, Chi bộ đã chỉ đạo chính quyền, các ngành các cấp tiến hành công tác tuyên truyền giáo dục cho toàn dân, đặc biệt là lực lượng thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự hiểu rõ nghĩa vụ trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước. Nhân dân trong xã tích cực động viên chồng, con, em lên đường nhập ngũ. Vì vậy, hàng năm xã Đồng Văn đều hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân trên giao. Các ban, ngành, đoàn thể đã chú trọng vận động nhân dân chăm lo giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng và thực hiện cấp phát tiền trợ cấp cho các đối tượng chính sách theo phương châm: “Đưa tận tay, đúng kỳ, đủ số, đúng chế độ chính sách”.

Ngày 18/3/1969 Đảng bộ huvện Đồng Văn tiến hành Đại hội lần thứ VI. Đại hội đã đánh giá hoạt động của Đảng bộ trong nhiệm kỳ qua, kiểm điểm và chỉ ra các nguyên nhân thành công và chưa thành công trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc phòng – an ninh. Đại hội xác định phát triển cây lương thực vẫn là nhiệm vụ trọng tâm của huyện. Mọi sự đầu tư, lãnh đạo của Đảng bộ huyện đều tập trung vào phát triển và tăng năng suất nông nghiệp. Nhiệm vụ trước mắt là hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp. Đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất, mạnh dạn áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật để tạo ra khối lượng lương thực, nhằm tự túc lương thực trong huyện, nâng cao mức sống của nhân dân và đảm bảo một phần nghĩa vụ đối với Nhà nước. Trong phát triển lương thực phải lấy cây ngô là cây trồng chính, coi trọng phát triển cây lúa và đẩy mạnh các loại hoa màu.

Tháng 9/1969, sau sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ngày 2/9/1969, Chi bộ đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu Hồ Chủ tịch và triển khai đợt sinh hoạt chính trị học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc biến đau thương thành hành động cách mạng, đẩy mạnh sản xuất, học tập, công tác, sẵn sàng chiến đấu. Qua đó cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong xã đã hiểu thêm về tác phong, đạo đức, cuộc đời và sự nghiệp lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó nguyện ra sức phấn đấu xây dựng Đảng, đoàn kết thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đợt học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên, đoàn viên thanh niên, đã tạo ra khí thi đua sôi nổi ở tất cả các thôn, bản, Hợp tác xã phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 1969.

Tiếp đó, tháng 10/1969, Chi bộ triển khai cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên, kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh, đề ra mục tiêu phấn đấu cho từng đảng viên thực hiện tốt 10 nhiệm vụ, 7 yêu cầu. Đồng thời kiên quyết xử lý những đảng viên thoái hoá biến chất. Thông qua cuộc vận động này cán bộ đảng viên có bước trưởng thành nhanh chóng trong nhận thức, trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII, VIII, IX của Đảng bộ huyện, trong những năm 1971-1975, nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn đã ra sức sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, đạt được những thành tích to lớn, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội do Huyện ủy đề ra. Hàng năm, xã Đồng Văn đều thực hiện đủ nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đối với Nhà nước. Sản lượng lương thực, thực phẩm tăng lên đáng kể qua các năm: năm 1975 năng suất lúa bình quân đạt 20,75 tạ/ha, ngô đạt 7,69 tạ/ha.

Công tác văn hóa - giáo dục thời kỳ này được chú trọng đặc biệt, các phong trào như: Xóa mù chữ, thi đua “Hai tốt” (dạy tốt, học tốt)... được đẩy mạnh. Mỗi Hợp tác xã có 1 lớp vỡ lòng, 1 lớp 1 và 1 lớp bổ túc văn hóa ban đêm. Nhân dân trong xã đã tích cực tham gia học tập, từng bước thoát khỏi tình trạng mù chữ. Công tác y tế được quan tâm. Trạm y tế xã có 2 y tá thường xuyên chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Công tác vệ sinh phòng bệnh được duy trì với các phong trào “ăn chín, uống sôi”, “làm hố vệ sinh”, “chuyển chuồng súc vật xa nhà”, “phát quang bụi rậm quanh nhà”… Vì vậy, trong nhiều năm liền xã Đồng Văn không có dịch bệnh lớn xảy ra.

Công tác bảo vệ trị an, giữ gìn an ninh xã hội luôn được giữ vững. Lực lượng dân quân, công an viên thôn, bản được củng cố và phát triển, trở thành lực lượng nòng cốt, xung kích trong mọi hoạt động. Xã đã thành lập 1 trung đội dân quân cơ động, được huấn luyện thường xuyên nhằm nâng cao sức chiến đấu bảo vệ quê hương. Vũ khí trang bị cho dân quân là súng K44, súng trường 7,9 ly, súng tiểu liên K43. Ngoài ra, mỗi đồng chí dân quân được trang bị dao găm, cuốc, xẻng, bao gạo và dây thừng... Nhờ đó công tác an ninh, quốc phòng trên địa bàn luôn được giữ vững tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Chi bộ Đảng, chính quyền xã trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy lực lượng dân quân. Động viên thanh niên trong độ tuổi đi khám tuyển nghĩa vụ quân sự, sẵn sàng nhập ngũ chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

Công tác xây dựng Đảng được chú trọng đặc biệt. Chi bộ đã luân phiên cử cán bộ đảng viên đi học chính trị, văn hóa, nghiệp vụ do tỉnh, huyện mở và đẩy mạnh việc bồi dưỡng kết nạp đảng viên mới. Vì vậy hàng năm Chi bộ đều hoàn thành kế hoạch phát triển đảng viên mới do Huyện ủy đề ra. Căn cứ vào Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, Chi bộ xã Đồng Văn thường xuyên tiến hành tổ chức Đại hội định kỳ nhằm kiểm điểm đánh giá ưu, khuyết điểm, xác định chỉ tiêu, kế hoạch, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Cuộc vận động thực hiện xây dựng “Chi bộ 4 tốt” được đẩy mạnh. Kết quả, 100% đảng viên của Chi bộ đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ được giao, sức chiến đấu từng bước được nâng cao.

Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng từng bước được xây dựng, củng cố vững mạnh và thực hiện tốt chức năng vận động và tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Công tác tuyên truyền vận động hội viên và nhân dân nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ cách mạng và tổ chức các phong trào thi đua chống Mỹ được đẩy mạnh. Phong trào “Ba sẵn sàng”(1), “Ba đảm đang”(2) được phát động liên tục trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã thu hút hàng ngàn lượt thanh niên, phụ nữ các dân tộc tham gia, góp phần thúc đẩy các mặt công tác lớn ở địa phương như phát triển sản xuất, xây dựng Hợp tác xã, làm đường giao thông, làm thuỷ lợi, sẵn sàng chiến đấu, tuyển quân, bảo vệ trị an… Lực lượng dân quân, công an viên được xây dựng củng cố vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, làm tốt nhiệm vụ trực chiến phòng không, phát huy vai trò xung kích của lực lượng vũ trang trong sản xuất và sẵn sàng chiến đấu.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã giành được thắng lợi. Sau hơn 20 năm bền bỉ phấn đấu (1954-1975) từ một xã nghèo nàn, lạc hậu, phức tạp về trật tự trị an, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn đã đoàn kết, chung sức chung lòng xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương với tiền tuyến lớn miền Nam. Kinh tế xã hội phát triển, quan hệ sản xuất XHCN được thiết lập, củng cố và phát triển. Hàng năm, tổng sản lượng lương thực, thực phẩm tăng, nông sản hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.

Nhân tố quyết định những thành tích hơn 20 năm của Chi bộ và nhân dân xã Đồng Văn chính là sự chỉ đạo trực tiếp, sâu sát của Chi bộ, sự đoàn kết nhất trí, tinh thần tự phê bình và phê bình thẳng thắn trong cán bộ và đảng viên. Đặc biệt, qua việc thực hiện nghiêm túc các cuộc vận động lớn về công tác xây dựng Đảng đã góp phần làm trong sạch, nâng cao chất lượng đảng viên. Chi bộ đã không dung túng nhưng sai lầm, khuyết điểm của cán bộ đảng viên. Đồng thời giác ngộ, giáo dục, kết nạp thêm những đảng viên mới để củng cố, không ngừng nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Chi bộ. Luôn gắn liền công tác xây dựng Đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm, coi trọng việc xây dựng phát huy vai trò, chức năng của chính quyền, các đoàn thể quần chúng bằng những biện pháp cụ thể. Phát huy ý thức làm chủ tập thể của quần chúng, thúc đẩy sản xuất phát triển toàn diện, đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.

III. CHI BỘ ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN XÃ ĐỒNG VĂN TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1976-1986)

1. Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp theo hướng tiến lên sản xuất lớn XHCN

Sau đại thắng mùa xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất đi lên CNXH. Nhằm xác định mục tiêu cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, ngày 14/12/1976 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV được tổ chức. Đại hội đề ra đường lối xây dựng CNXH trên phạm vị cả nước, quyết định mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976-1980). Ngày 25/4/1977 Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên[1] lần thứ nhất được tổ chức. Đại hội đã đề ra chủ trương xây dựng Hà Tuyên thành tỉnh phát triển toàn diện cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, có cơ cấu kinh tế nông – lâm - công nghiệp phát triển theo hướng sản xuất lớn XHCN. Đầu tư phát triển nông nghiệp, trong đó sản xuất lương thực là nhiệm vụ hàng đầu, từng bước nâng cao đời sống nhân dân, tăng tích lũy cho Nhà nước.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ cấp trên, ngày 24/10/1976 Đại hội Đảng bộ huyện Đồng Văn lần thứ X được tiến hành. Đại hội đã xác định: tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng tư tưởng văn hóa. Xây dựng củng cố Hợp tác xã nông nghiệp, áp dụng kỹ thuật mới vào các cây, con; xây dựng ruộng, nương bậc thang, bố trí cây trồng, vật nuôi thích hợp với từng vùng; đẩy mạnh phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm và các cây đặc sản bằng cách thâm canh, tăng năng suất.

Để thuận tiện cho công tác chỉ đạo, quản lý, được sự đồng ý của tỉnh và Trung ương, từ tháng 6/1977 Huyện ủy, UBND huyện, các cơ quan Ban, ngành của huyện Đồng Văn chuyển từ Phó bảng về xã Đồng Văn. Xã Đồng Văn từ đây trở thành trung tâm chính trị, kinh tế văn hóa, quốc phong - an ninh của huyện Đồng Văn. Đây là cơ sở rất thuận lợi để cán bộ đảng viên và nhân dân xã Đồng Văn nhận được sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ, chính quyền, các ngành của huyện.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Huyện ủy, ngay từ đầu năm 1976, Chi bộ xã Đồng Văn đã tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III về nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Đồng thời, ngay sau khi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X được ban hành, Chi bộ đã khẩn trương tổ chức quán triệt sâu rộng trong cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân đồng thời xác định chương trình mục tiêu phấn đấu thực hiện. Qua đợt học tập, nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về đường lối và nhiệm vụ cách mạng được nâng lên một bước, củng cố niềm tin vào công cuộc xây dựng CNXH do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X, trong giai đoạn 1976-1980 Chi bộ đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm là: đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trong đó tập trung vào sản xuất cây ngô, lúa là chính và các loại cây hoa màu. Tiếp tục tiến hành cuộc vận động củng cố lại sản xuất, cải tiến quản lý Hợp tác xã, từng bước đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN; coi trọng thâm canh, tăng vụ, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chăn nuôi. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH; hoàn thành một bước về củng cố và phát triển quan hệ sản xuất XHCN.

Thời gian này, do khí hậu thời tiết khắc nghiệt nên năng suất cây trồng không cao. Đời sống nhân dân còn nghèo nàn lạc hậu. Công tác chỉ đạo, điều hành chưa đáp ứng yêu cầu. Hầu hết giải quyết công việc theo sự vụ, chưa có kế hoạch hoạt động thường xuyên. Việc điều hành công tác Ủy ban do cán bộ tăng cường phụ trách.

Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn đã thi đua lao động sản xuất, đạt được những thành tích đáng phấn khởi. Diện tích các loại cây lương thực đều tăng qua các năm. Đàn gia súc, gia cầm tăng trưởng mạnh ở cả các trại chăn nuôi tập trung của các Hợp tác xã và hộ gia đình. Cùng với việc phát triển Hợp tác xã nông nghiệp thì Hợp tác xã mua bán cũng được củng cố và phát triển một cách đồng bộ, đảm bảo cung ứng đủ các mặt hàng thiết yếu cho nhu cầu của nhân dân, như: dầu, muối, vải, sách vở cho học sinh và các mặt hàng phục vụ cho sản suất. Đi đôi với các mặt hàng phục vụ, Hợp tác xã mua bán còn làm chức năng tiêu thụ sản phẩm cho nhân dân.

Sản xuất lương thực và chăn nuôi ở xã Đồng Văn phụ thuộc rất nhiều vào khí hậu thời tiết. Trong giai đoạn 1976-1980 thường có rét đậm, băng giá kéo dài, giữa vụ lại nắng hạn làm ảnh hưởng đến sản xuất, riêng năm 1977 nắng hạn diễn ra cả 5 tháng. Chi bộ đã chỉ đạo các Hợp tác xã và hộ gia đình sử dụng nhiều biện pháp chống rét cho cây trồng, vật nuôi, tích cực làm thủy lợi chống hạn, áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong làm phân, giống, do đó những năm 1976-1978 sản lượng nông nghiệp vẫn giữ vững. Năm 1979-1980, mặc dù chịu ảnh hưởng chiến tranh biên giới nhưng sản lượng nông nghiệp vẫn bắt đầu tăng trưởng.

Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, nhân dân đã tập trung lao động sản xuất, tình trạng trông chờ ỷ lại vào Nhà nước giảm rõ rệt. Công tác chăm sóc, vun xới và phát hiện sâu bệnh, chăm sóc các loại cây trồng được tăng cường. Nhân dân đã tích cực sử dụng phân bón trong canh tác đảm bảo số lượng phân bón đạt 5 tấn/ha. Trước mùa vụ, công tác chuẩn bị sửa kho, sắm sửa dụng cụ thu hoạch được thực hiện chu đáo. Sau khi thu hoạch, tại các Hợp tác xã, Chi bộ Đảng xã cũng đã chú ý tăng cường lãnh chỉ đạo đội ngũ chủ nhiệm Hợp tác xã, kế toán thực hiện việc phân chia sản phẩm đảm bảo công bằng theo ngày công với phương châm “người làm nhiều hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít, người không làm không hưởng”, kiểm tra năng suất và vận động quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương không nấu rượu bằng lương thực nhằm đảm bảo lương thực, phục vụ nhu cầu sinh hoạt. Đồng thời, Chi bộ Đảng xã đã lãnh chỉ đạo nhân dân thực hiện thu hoạch đến đâu cày ải đến đó, chuẩn bị các nông cụ, phân, giống đảm bảo theo số lượng.

Bên cạnh đó, với chủ trương linh hoạt, sau khi thu hoạch xong Chi bộ Đảng xã chỉ đạo các hợp tác khuyến khích cho xã viên tranh thủ mượn diện tích đất để trồng các cây vụ đông ngắn ngày. Việc mượn đất canh tác được đảm bảo theo tổ chức. Để tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và tinh thần chủ động của nhân dân, Chi bộ Đảng xã đã lãnh đạo 3 Hợp tác xã có tổ trồng rau xung quanh trung tâm xã hình thành khu vực trồng rau tập trung, ký hợp đồng với Nhà nước. Nhà nước hỗ trợ về tổ chức, về kỹ thuật. Nhờ đó, nhân dân tại 3 tổ đã tích cực trong công tác chăm sóc việc trồng rau, đậu, mạch… góp phần đảm bảo nguồn lương thực trong năm. Chủ trương lãnh chỉ đạo của Chi bộ Đảng xã đã nhận được sự hưởng ứng tích cực của các hợp tác xã. 

Khắc phục tình trạng thiếu nước về mùa khô, ngập úng trong mùa mưa lũ ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất, sinh hoạt của nhân dân, Chi bộ Đảng xã đã chỉ đạo các Hợp tác xã chủ động giải quyết tình trạng ứ đọng nước do mưa lũ xảy ra, khơi thông hệ thống kênh mương để cung cấp nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt được ổn định đồng thời cử cán bộ phụ trách công tác khuyến nông cùng cán bộ huyện khảo sát các công trình thủy lợi trên địa bàn xã để tìm giải pháp khắc phục lâu dài. Huyện đã hỗ trợ, giúp đỡ nguyên vật liệu và nhân lực xây dựng hồ chứa nước phục vụ cho khu vực đồng ruộng ở Quyết Tiến, Đồng Tâm, Đồng Thanh. Hệ thống mương, phai đã được khơi thông dòng nước.

Dưới sự lãnh chỉ đạo sâu sát của Chi bộ Đảng, sản lượng lương thực thực phẩm trên địa bàn xã đã đạt những kết quả tích cực. Năng suất từng bước được nâng cao. Lượng rau cung cấp hàng ngày đạt 80-85% nhu cầu; rau đậu các loại đạt 898kg. Chỉ tính riêng năm 1980, sản lượng ngô đạt 3.820kg (tăng 1.848kg so với năm 1979; năm 1979 đạt 1.972 kg), năng suất đạt 9,1 tạ/ha. Sản lượng lúa đạt 9.079 kg, năng suất lúa đạt 25,5 tạ/ha; dong riềng trồng và thu được 96.200 gốc, vượt chỉ tiêu 36.400 gốc. Bình quân lương thực trên đầu người đạt 25kg/tháng. Các Hợp tác xã thực hiện tốt nghĩa vụ lương thực, đạt 100% nghĩa vụ lương thực Nhà nước giao. Tháng 6/1980, nhân dân xã đã thực hiện nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước được 5.496 kg thịt lợn hơi, 223 kg thịt gà, 444  kg thịt bò hơi, 121 kg rau, đậu và 162 kg hoa quả. Tháng 9/1980 thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước được 501 kg lợn hơi, 3 con bò. Năm 1980 UBND xã đã huy động 160 con ngựa thồ vận chuyển được số lượng là 8 tấn lương thực các loại để nộp nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước đồng thời tiếp tục vận động nhân dân thực hiện các chỉ tiêu khác về nghĩa vụ lương thực thực phẩm phục vụ cho nhu cầu quốc phòng.

Tuy nhiên, trong thời điểm giáp hạt tỷ lệ hộ đói trên địa bàn xã còn cao chiếm 75-85%. Một số Hợp tác xã chưa thực hiện chính sách công bằng trong sản xuất, gây dư luận xấu trong nhân dân, chỉ cho những xã viên cũ vay nguồn gạo cứu đói, dẫn đến tình trạng một số hộ xã viên mới bị thiếu lương thực. Những hộ gia đình bị thiếu lương thực tại thời điểm giáp hạt thường xuyên phải ăn rau, đậu, hoa quả. Diện tích đất nông nghiệp và giống ngô, lúa tại các Hợp tác xã Mã Lủ A, Má Pắng, Sảng Ma Sao chưa được đưa vào canh tác, diện tích đất khác còn trống 5%. Các Hợp tác xã Quyết Tiến, Đồng Thanh chưa tích cực đưa giống mới vào sản xuất, không tuân thủ theo những kỹ thuật phát triển mô hình rau đậu đạt hiệu quả. Công tác hướng dẫn phát triển kinh tế cho các hộ xã viên chưa được tích cực triển khai thực hiện.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do ảnh hưởng trực tiếp của chiến tranh biên giới, hàng trăm ha đất nông nghiệp ở vùng biên bị bỏ hoang. Công tác chỉ đạo, quản lý của các Ban Quản trị các Hợp tác xã chưa sâu sát, khoán trắng cho các đội sản xuất, thiếu hoạt động kiểm tra, giám sát. Bên cạnh đó, do thời tiết diễn biến phức tạp, mưa đá, nắng hạn kéo dài xảy ra gây ảnh hưởng đến sản xuất. Đặc biệt, vụ xuân hè năm 1981, đã xảy ra nắng hạn kéo dài, trên 1.000 kg giống đậu các loại không phát triển được. Trong đó, giống rau đậu răng ngựa hầu như đã bị mất.

Công tác văn hóa giáo dục được chú trọng đã thu được những thành tựu đáng phấn khởi, phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, nhất là công tác xóa mù chữ được thực hiện thường xuyên. Trường lớp được củng cố lại, số lượng lớp và học sinh đều tăng. Các thôn, bản đều có ít nhất một lớp vỡ lòng, một lớp bổ túc văn hóa học tại trụ sở UBND xã. Chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao.

Công tác y tế có nhiều tiến bộ, trạm xá xã đã có một y sỹ và hai y tá, tủ thuốc đã có đủ các loại thuốc chữa bệnh thông thường đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho việc khám chữa bệnh của nhân dân. Các phong trào như: Vệ sinh phòng bệnh, chống rét mùa đông, phòng chống bệnh sốt rét, sinh đẻ có kế hoạch, tiêm vắc xin phòng bệnh cho trẻ em…  thường xuyên được phát động và duy trì. Công tác hướng dẫn nhân dân vệ sinh phòng bệnh được đẩy mạnh, nên dịch bệnh trên địa bàn xã không xẩy ra, chỉ số sức khỏe của nhân dân được nâng lên.

Công tác xây dựng Đảng được tiến hành thường xuyên, năng lực lãnh đạo của Chi bộ Đảng đối với chính quyền và các tổ chức đoàn thể của xã được nâng cao một bước rõ rệt. Cán bộ đảng viên thường xuyên được học tập lý luận chính chị, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Các tổ Đảng ở thôn, bản, Hợp tác xã hoạt động có hiệu quả, đảm bảo đủ năng lực lãnh đạo.

Việc tổ chức sinh hoạt Đảng được triển khai thực hiện thường xuyên. Hàng tháng, Chi bộ Đảng đã nhận định đánh giá công tác lãnh chỉ đạo và đề ra những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Hầu hết các đảng viên trong Chi bộ đã nghiêm túc thực hiện Nghị quyết Chi bộ đã đề ra, gương mẫu, tích cực lao động sản xuất, góp phần nâng cao uy tín của Đảng đối với quần chúng nhân dân. Hoạt động lấy ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân để đánh giá chất lượng đảng viên hàng năm được thực hiện thường xuyên, nhằm phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của từng đảng viên. Qua đó, đã tạo sự chuyển biến về tư tưởng và hành động của đảng viên.

Đến năm 1980, Chi bộ Đảng xã có 22 đảng viên được tổ chức thành 3 tổ Đảng gắn với phụ trách các thôn, xóm, hợp tác xã, cụ thể:  Tổ 1 gồm 7 đồng chí, phụ trách Hợp tác xã Quyết Tiến, Lùng Lủ, Má Ủ, Sảng Ma Sao, Quán Dín Ngài; Tổ 2 gồm 8 đồng chí, phụ trách Đồng Tâm, Đồng Thanh, Xì Pài, Tủ Sán, Pố Lổ; Tổ 3 gồm 7 đồng chí phụ trách Mã Lủ A, Mã Lủ B, Mã Pắng A, Mã Pắng B, Thiên Hương. Ngày 2/9/1980 chi bộ Đảng xã đã hoàn thành công tác phát thẻ Đảng cho đảng viên. Công tác phát triển Đảng được Chi bộ Đảng quan tâm triển khai thực hiện, những quần chúng ưu tú tiếp tục được theo dõi, bồi dưỡng, giúp đỡ để kết nạp Đảng. Năm 1980 phát triển được 4 đảng viên mới. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc đấu tranh tự phê bình và phê bình chưa cao, ảnh hưởng đến sức chiến đấu của Chi bộ Đảng, tình trạng đảng viên không biết chữ, biết ít tiếng phổ thông vẫn còn tương đối nhiều. Thời gian này, Chi bộ xét kỷ luật khai trừ 1 đảng viên.

Hoạt động của HĐND, UBND xã có nhiều tiến bộ, trình độ, năng lực điều hành có hiệu quả hơn. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân... thường xuyên được củng cố về tổ chức, hoạt động có nề nếp. Công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, nâng cao ý thức trách nhiệm trong lao động sản xuất, phục vụ chiến đấu, đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN được đẩy mạnh. Từ đó, năng suất lao động của xã viên các Hợp tác xã được nâng lên.

Về công tác giáo dục, các trường học trên địa bàn xã đã tích cực đưa hoạt động giảng dạy, học tập đi vào nề nếp. Công tác tuyên truyền, vận động con em trên địa bàn xã đi học phổ thông và bổ túc được thực hiện tốt. Các tổ chức đoàn thể, Hợp tác xã đã huy động lực lượng tu sửa bàn ghế, trường lớp phục vụ cho nhu cầu học tập của các em học sinh. Đến năm 1980, 5 điểm trường mới ở các thôn: Lùng Lú, Sảng Ma Sao, Thiên Hương, Má Lủ, Má Pắng được xây dựng và đưa vào sử dụng. Nâng số điểm trường trên địa bàn xã là 13 điểm với tổng số 877 học sinh. Đội ngũ giáo viên ổn định về số lượng và từng bước nâng cao về chất lượng. Một số Hợp tác xã đã cử người biết chữ ra dạy học cho những người chưa biết chữ. Nhờ đó, tỷ lệ mù chữ trên địa bàn đã giảm đáng kể.

Trong giai đoạn 1976-1980, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn đã đoàn kết, chung sức chung lòng xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, đóng góp sức người sức của cho tuyến trước bảo vệ vững chắc biên giới Tổ quốc. Trên địa bàn xã, kinh tế - xã hội từng bước phát triển, quan hệ sản xuất XHCN được thiết lập, củng cố. Tổng sản lượng lương thực, thực phẩm hàng năm tăng, nông sản hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Đồng Văn lần thứ XI, XII, Chi bộ đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 1980-1986 là: đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chăn nuôi; tiếp tục cải tiến quản lý Hợp tác xã, từng bước đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH; hoàn thành một bước về củng cố và phát triển quan hệ sản xuất XHCN.

Ngày 13/1/1981 Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong Hợp tác xã nông nghiệp. Nội dung cơ bản của Chỉ thị là cải tiến mạnh mẽ các hình thức khóan của đội sản xuất đối với xã viên, mở rộng “khoán sản phẩm”. Chỉ thị 100 đi vào cuộc sống đã tạo đà đi lên, ngăn chặn sự sa sút của nền nông nghiệp trên phạm vi cả nước. Năng suất, sản lượng cây, con và diện tích cây công nghiệp tăng nhiều hơn trước. Bình quân lương thực đầu người năm sau cao hơn năm trước. Theo đó, cơ chế hoạt động của Hợp tác xã nông nghiệp có sự thay đổi lớn, Hợp tác xã chuyển từ lao động tập thể, sử dụng chung đất đai sang giao ruộng đất về cho từng hộ xã viên canh tác theo kế hoạch của Hợp tác xã.                

Thực hiện Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện, việc thực hiện khoán đến hộ gia đình đã được tích cực triển khai thực hiện. Chi bộ Đảng xã đã tập trung chỉ đạo củng cố Hợp tác xã nông nghiệp với quy mô nhỏ thích hợp từ 15 đến 30 hộ gắn với địa bàn từng thôn bản, thực hiện cơ chế khoán đến nhóm và người lao động, khuyến khích lao động cá thể. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Chỉ thị 100, nội dung về giải quyết cơ chế quản lý tập trung quan liêu chưa được tháo gỡ, cơ chế quản lý Hợp tác xã còn nhiều mặt bất hợp lý, mức khoán không ổn định, bộ máy quản lý gián tiếp của Hợp tác xã cồng kềnh, kém hiệu quả; tổng mức huy động của Nhà nước tăng, phần dành phân phối cho người lao động không đáng kể. Nền kinh tế trên địa bàn xã vẫn chủ yếu là tự cung tự cấp, diện tích canh tác chủ yếu là đất rải rác trên các hốc đá nên tổng diện tích đất không lớn, khả năng sản xuất còn gặp nhiều khó khăn. Đời sống nhân dân những năm 1982-1986 còn hết sức khó khăn, thiếu thốn. Bữa ăn hàng ngày của người dân chủ yếu là bột ngô (mèn mén) và các loại đậu, rau xanh.

Trong điều kiện tình hình chiến sự biên giới diễn biến phức tạp, Chi bộ Đảng xã đã tập trung lãnh chỉ đạo nhân dân vừa đẩy mạnh sản xuất, vừa phục vụ chiến đấu. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tập trung phát triển các cây lương thực chính, như: ngô, lúa, các cây khoai lang, tam giác mạch, đậu co ve, hoa màu các loại và thâm canh, gối vụ nhằm đảm bảo an ninh lương thực, chỉ tiêu nghĩa vụ lương thực thực phẩm đối với Nhà nước được thực hiện tốt. Chi bộ Đảng đã ban hành nghị quyết nhằm giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tích cực lao động sản xuất, lãnh đạo các Hợp tác xã tổ chức xếp nương đá nhằm chống tình trạng xói mòn, rửa trôi diện tích đất canh tác có độ dốc cao trong mùa mưa lũ. Đồng thời đối với diện tích đất nông nghiệp chưa sử dụng đến, Chi bộ Đảng xã chỉ đạo các Hợp tác xã xây dựng kế hoạch chuẩn bị các loại giống và đề nghị cấp trên cung cấp số lượng giống theo đề xuất của các Hợp tác xã. Dưới sự lãnh đạo tích cực của Chi bộ, năm 1986 các Hợp tác xã đã hoàn thành nghĩa vụ bán thực phẩm cho Nhà nước. Sản lượng lúa đạt 7.540 kg, ngô 3.060 kg, mạch 790 kg, dong riềng 43.850 kg, khoai lang 5.920 kg, đậu tương 380 kg, đậu hà lan 323 kg, đậu co ve 384 kg. Tuy nhiên, trước tình trạng mưa nhiều và mưa lớn xảy ra, một số diện tích đất vẫn còn xảy ra tình trạng rửa trôi, sâu bệnh phát triển ảnh hưởng tới sản xuất. Một số diện tích đất canh tác bị bỏ hoang, thiếu mạ nên sản lượng lương thực tại một số thôn không cao. Tình trạng thiếu đói cần được cứu tế tại thời điểm giáp hạt vẫn xẩy ra với 163 hộ, 804 khẩu.

Chi bộ Đảng xã lãnh chỉ đạo nhân dân tập trung phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn nái, gà... và phát động các hộ nông dân thực hiện chủ trương mỗi hộ phấn đấu nuôi 1-2 con trâu, bò; nuôi từ 1-2 con lợn; 30 con gia cầm. Trong thời điểm giáp hạt, Chi bộ Đảng xã đề ra chủ trương hỗ trợ các hộ nông dân sử dụng nguồn lương thực dự trữ để cung cấp kịp thời đảm bảo cho phát triển chăn nuôi. Nhờ đó, số lượng gia súc, gia cầm đã tăng lên: năm 1981 số lượng trâu là 270 con, bò 382 con, ngựa 208 con, dê 103 con, lợn 389 con, gia cầm 3.784 con; đến những năm 1982-1986, để kích thích chăn nuôi phát triển, Chi bộ Đảng đã lãnh đạo nhân dân thực hiện nghĩa vụ cho Nhà nước, 1 kg thịt lợn hơi tương đương với 3 kg lương thực; đồng thời chỉ đạo dành 5% diện tích đất nông nghiệp để phục vụ cho việc trồng các cây lương thực, thực phẩm… phát triển chăn nuôi. Quy định những khu vực cụ thể dành cho việc chăn thả gia súc. 

Trong công tác bảo vệ và trồng cây gây rừng. Hàng năm, Chi bộ Đảng phát động phong trào “tết trồng cây”, “mỗi hộ trồng cây quanh vườn từ 8-10 cây”. Phong trào nhận được sự hưởng ứng tích cực của Hợp tác xã và các hộ gia đình, trong dịp tết trồng cây 1985-1986 đã trồng được 2.500 cây ăn quả, 1.500 cây lấy gỗ, 200 khóm tre, trúc. Bên cạnh đó, Chi bộ Đảng đã tiến hành việc giao đất giao rừng cho Hợp tác xã quản lý và chỉ đạo tiến hành công tác củng cố, tu bổ những khu rừng Nhà nước giao; tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho nhân dân về công tác chăm sóc, bảo vệ rừng, không để chăn thả tự do đàn gia súc. Tuy nhiên, việc khai phá rừng còn bừa bãi, ý thức trách nhiệm bảo vệ rừng của nhân dân chưa cao.

Công tác văn hóa - xã hội được quan tâm thường xuyên. Chi bộ Đảng xã đã lãnh chỉ đạo việc duy trì, nâng cao chất lượng hoạt động của đội văn nghệ xã, coi đó là hạt nhân để thúc đẩy, nâng cao đời sống tinh thần nhân dân. Nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, địa phương, nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, trong đó tập trung là bóng đá, bóng chuyền được thực hiện tương đối tốt. Tuy nhiên, các hủ tục mê tín dị đoan trong ma chay, cưới xin còn tương đối nặng nề; tình trạng nghiện hút trên địa bàn xã còn xảy ra khoảng 50-60 trường hợp. Việc chăm sóc, dạy dỗ con cái trong gia đình chưa được quan tâm chú trọng.

Thực hiện Nghị quyết 07 của Huyện ủy Đồng Văn về công tác giáo dục, chi bộ Đảng xã đã tăng cường lãnh chỉ đạo đẩy mạnh vai trò giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Công tác xây dựng cơ sở vật chất phục vụ việc giảng dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh được quan tâm. Số lượng giáo viên được tăng cường, năm 1986 trên địa bàn xã có 19 giáo viên. Công tác xây dựng cơ sở vật chất tại điểm trường chính được chú trọng, đồng thời các điểm trường tại Đầu Chua, Má Ú, Lùng Lú, Quán Dín Ngài được mở thêm để đáp ứng nhu cầu học tập của con em trên địa bàn xã. Năm học 1986-1987, số lượng học sinh đã tăng so với năm học trước, đặc biệt đã huy động được thêm 18 học sinh dân tộc H’Mông đến trường.

Công tác y tế được tăng cường một bước về cơ sở vật chất kỹ thuật. Đến năm 1985, cùng với các xã khác trên địa bàn huyện, xã Đồng Văn đã có trạm y tế. Trạm xá xã có 1 y sĩ và 2 y tá là người địa phương. Dưới sự chỉ đạo sát sao của Chi bộ Đảng, đội ngũ cán bộ y tế xã tích cực tuyên truyền vận động nhân dân phòng, chống các dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, phát thuốc phòng bệnh, chữa bệnh, phát hiện kịp thời dịch bệnh. Tủ thuốc trạm xá xã đã cơ bản có đầy đủ các loại thuốc. Công tác tuyên truyền, vận động chữa bệnh bằng thuốc nam, xây dựng vườn thuốc tập thể và cá nhân được đẩy mạnh. Qua đó, tình trạng người dân khi bị ốm đau tổ chức cúng bái, ma chay gây ra lãng phí, tốn kém đã giảm. Số lượng bệnh nhân đến khám, chữa bệnh tại trạm xá xã ngày càng tăng. Công tác giữ gìn vệ sinh “3 sạch” (ăn sạch, ở sạch, uống sạch) được thực hiện tương đối tốt. Việc di dời chuồng trại ra xa nhà được triển khai thực hiện nghiêm túc. Tuy nhiên, cơ sở vật chất của trạm xá xã còn thiếu thốn, giường nằm cho bệnh nhân sơ sài, sinh hoạt ăn uống của bệnh nhân tại bệnh xá gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, năm 1986 tình hình dịch sởi xảy ra làm 597 người mắc bệnh, chủ yếu tập trung ở độ tuổi dưới 15, số bệnh nhân chết do dịch sởi là 6 người.

Công tác an sinh xã hội được thực hiện tốt. Chi bộ Đảng xã đã lãnh đạo việc thực hiện nghiêm túc chính sách hỗ trợ từ Đảng, Nhà nước đối với các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, hỏa hoạn, 16.192 kg lương thực đã được cứu tế. Mỗi khẩu trung bình nhận được sự hỗ trợ lương thực là 6 kg.

2. Huy động sức người, sức của, góp phần xây dựng tuyến phòng thủ, phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới của Tổ quốc

Từ cuối năm 1978 tình hình biên giới diễn biến ngày càng phức tạp, phía Trung Quốc tăng cường áp lực quân sự, khiêu khích lấn chiếm, gây căng thẳng trên dọc tuyến biên giới Việt – Trung. Ngày 6/1/1979 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị, nêu rõ chủ trương của ta sẵn sàng chiến đấu ở biên giới phía Bắc và nhiệm vụ của các tỉnh biên giới phía Bắc lúc này là khẩn trương chuẩn bị chiến đấu, kịp thời phát hiện mọi âm mưu hành động xâm lược của địch, không để bất ngờ, không mắc mưu khiêu khích của địch. Nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu cho các lực lượng vũ trang, đập tan mọi âm mưu lấn chiếm xâm phạm Tổ quốc ta.

Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Chi bộ đã mở đợt sinh hoạt chính trị trong toàn Đảng, toàn dân... Trong vòng 2 tháng, cán bộ, đảng viên, hàng ngàn lượt quần chúng đã được quán triệt học tập đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về tình hình nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Qua tuyên truyền vận động, quần chúng nhân dân các dân tộc đã nhận thức rõ hơn tình hình nhiệm vụ mới, âm mưu thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nhưng xuất hiện kẻ thù mới, trực tiếp nguy hiểm với những âm mưu thủ đoạn thâm độc, đang đe dọa độc lập, chủ quyền lãnh thổ nước ta. Trên cơ sở đó ra sức đoàn kết, đẩy mạnh sản xuất, học tập công tác, góp phần thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược của Đảng là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Chi bộ xã đã xác định xã Đồng Văn nằm trong vùng tuyến một, tuyến trực tiếp chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc; cần tiến hành chuyển hướng sản xuất để phù hợp với điều kiện có chiến tranh, kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh. Công tác quân sự, an ninh trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của Chi bộ. Chi bộ đã chỉ đạo Ban Chỉ huy quân sự xã tăng cường xây dựng củng cố lực lượng dân quân thôn, bản; xây dựng huấn luyện các phương án chiến đấu bảo vệ địa bàn, phát động quần chúng xây dựng làng, xã chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và giữ vững trật tự an ninh, đập tan các cuộc bạo loạn ở nội địa. Trước mắt cần tập trung vào các nhiệm vụ:

- Kiện toàn tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể từ xã đến cơ sở đảm bảo trong sạch, vững mạnh về chính trị tổ chức, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Xây dựng lực lượng dân quân, công an viên vững mạnh, phát huy sức mạnh tổng hợp của thế trận quốc phòng toàn dân, sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

- Đẩy mạnh phát triển sản xuất đáp ứng nhu cầu cung cấp cho lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm hậu cần tại chỗ.

Thực hiện Nghị quyết lãnh đạo của Chi bộ, ngay từ năm 1978, hàng trăm lượt dân quân, dân công được cử lên biên giới xây dựng trận địa chiến đấu, vận chuyển lương thực, đạn dược cho bộ đội. Tại xã Đồng Văn, lực lượng dân quân đã đào hàng ngàn mét hào giao thông, hàng chục hầm, hố ở các trận địa chiến đấu bảo vệ công sở xã và các cơ quan, đơn vị của huyện đóng trên địa bàn. Nhân dân các dân tộc đã đóng góp hàng tấn lương thực, thực phẩm, hàng trăm kg rau đậu các loại hỗ trợ cho quân và dân các xã biên giới xây dựng tuyến phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu.

  Ngày 17/2/1979 chiến tranh biên giới nổ ra, tình hình chiến sự ác liệt diễn ra trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung. Địch đã huy động hơn nửa triệu quân tiến công xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc của đất nước ta. Tại biên giới tỉnh Hà Tuyên, địch huy động 2 sư đoàn chủ lực có pháo binh yểm trợ đồng loạt tiến công vào các huyện biên giới. Tại Đồng Văn, địch sử dụng pháo, cối bắn phá ác liệt các điểm cao dọc biên giới và thị trấn Phó Bảng, sau đó cho 1 trung đoàn bộ binh tấn công vào thị trấn Phó Bảng. Lực lượng vũ trang địa phương đã chiến đấu dũng cảm đánh lui các đợt tiến công của địch.

Trước đòn giáng trả quyết liệt của quân dân ta và sự lên án mạnh mẽ của dư luận thế giới, ngày 18/3/1979 địch phải tuyên bố rút quân, song họ vẫn duy trì lực lượng lớn quân sự ở biên giới, chốt giữ nhiều điểm cao có lợi trên đường biên, tiếp tục khiêu khích vũ trang gây tình hình căng thẳng. Âm mưu cơ bản lâu dài của chúng là làm suy yếu Việt Nam bằng chiến lược lấn chiếm biên giới và kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt. Địch sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt nhằm phá hoại ta trên tất cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội, dùng chiến tranh tâm lý chống phá ta cả về tư tưởng, tổ chức.

Tại biên giới huyện Đồng Văn, địch dùng loa phát thanh cỡ lớn, truyền đơn tuyên truyền xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, gieo rắc tâm lý hoang mang trong cán bộ đảng viên, gây hiềm khích giữa các dân tộc; tăng cường hoạt động thám báo, biệt kích nhằm giết hại cán bộ, bộ đội, móc nối mua chuộc các phần tử phản động cũ và cả cán bộ đảng viên biến chất, nhen nhóm các tổ chức phản động, gây bạo loạn. Ngày 8/8/1979 địch sử dụng pháo, cối bắn phá ác liệt các xã Phố Là, Sủng Là, Đồng Văn, Lũng Táo, Ma Lé, Sà Phìn, Lũng Cú, sau đó, cho 1 trung đoàn bộ binh chia làm 2 mũi tấn công vào Sủng là, Phố Là và thị trấn Phó Bảng. Chúng còn sử dụng bè lũ tay sai và mua chuộc một số phần tử phản động đưa mìn về địa phương, gây tiếng nổ, dải truyền đơn, tung các tin đồn, bán hàng hóa tâm lý… để gây hoang mang trong nhân dân, xúi dục một số phần tử tiêu cực có những hành động quấy rối lực lượng cán bộ của ta. Trước sự tấn công của địch, bộ đội và dân quân đã chiến đấu dũng cảm đánh lui các đợt tiến công của địch.

Ngày 27/8/1979 Đại hội đại biểu lần thứ XI Đảng bộ huyện Đồng Văn đã đề ra nhiệm vụ chiến lược trong hai năm 1979 - 1980 của huyện là: Đẩy mạnh sản xuất nông - lâm nghiệp, tổ chức tốt đời sống nhân dân và đảm bảo cung cấp hậu cần tại chỗ, từng bước xây dựng huyện thành pháo đài quân sự, chính trị, kinh tế vững chắc, đánh thắng chiến tranh lấn chiếm biên giới và kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch. Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên, chiến sỹ lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc huyện Đồng Văn hãy đoàn kết tin tưởng, quyết tâm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội lúc này có nhiều diễn biến phức tạp. Với hình thức chiến tranh phá hoại nhiều mặt và âm mưu lấn chiếm biên giới, kẻ thù thường xuyên đe dọa chiến tranh, tung thám báo, rải truyền đơn, đặc biệt là dùng gián điệp móc nối, cài cắm nhằm xây dựng cơ sở nội ứng chống phá ta lâu dài. Trước tình hình đó, Chi bộ Đảng xã đã chỉ đạo chính quyền củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị. Xã đã bổ sung, kiện toàn Ban Chỉ huy quân sự, tăng cường củng cố huấn luyện lực lượng dân quân thôn, bản. Đồng chí Phó Chủ tịch UBND xã được chỉ định làm Trưởng Ban Công an xã. Mỗi Hợp tác xã có một đến hai đồng chí công an viên. Đội ngũ công an xã thường xuyên được huấn luyện nghiệp vụ nhằm đảm bảo chất lượng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của địch. Cùng với sự giúp đỡ của các đồng chí công an huyện về tăng cường, lực lượng công an xã đã thường xuyên xuống các cụm dân cư tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của địch và cảnh giác đối phó. Từ đó, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tính mạng và tài sản của nhân dân được an toàn, không có các vụ việc phức tạp xảy ra.

Cũng từ năm 1979 tình hình an ninh trên tuyến biên giới tỉnh Hà Tuyên xấu đi do kẻ địch dùng mọi thủ đoạn tuyên truyền trong nhân dân những nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, lừa gạt, kích động và cưỡng ép người Việt gốc Hoa chạy trốn. Người Việt gốc Hoa ở Đồng Văn đã được Đảng bộ, chính quyền nhân dân các dân tộc đối xử bình đẳng như các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhưng do bị kẻ xấu tuyên truyền gây hoang mang, 590 người đã bỏ về nước, trong số đó có người là đảng viên, cán bộ, công nhân viên chức, cán bộ lãnh đạo cấp xã.

Quán triệt sâu sắc quan điểm lãnh chỉ đạo của Đảng, Đảng bộ tỉnh, huyện và của Bộ Quốc phòng, Chi bộ Đảng xã đã ban hành Nghị quyết lãnh đạo về nhiệm vụ quân sự quốc phòng địa phương, huy động mọi nguồn lực của toàn dân vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Địa bàn xã được phân thành 3 tuyến, gồm: Tuyến biên giới là tuyến chiến đấu bào gồm các thôn ở sát biên giới; Tuyến cư trú, sản xuất và sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu; Tuyến căn cứ, hậu cứ. Chi bộ Đảng xã đã chỉ đạo lực lượng Ban Chỉ huy quân sự xã, công an xã khẩn trương xây dựng các phương án, kế hoạch tác chiến, nội quy phòng gian bảo mật, nội quy giữ gìn, bảo vệ vũ khí, đạn dược chặt chẽ và tăng cường củng cố xây dựng công sự trận địa, huấn luyện, tuần tra, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa bàn.

Bên cạnh đó, Chi bộ Đảng đã xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu, một mặt tăng cường củng cố bổ sung hầm hào, sửa sang chốt gác, xây dựng phương án tác chiến, mặt khác cử cán bộ phụ trách tăng cường kiểm tra để đảm bảo sẵn sàng chiến đấu cao, thực hiện phương châm “địch vào là diệt, địch đi là sản xuất”. Lãnh chỉ đạo việc đề cao cảnh giác phát hiện địch cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân yên tâm lao động sản xuất, đề phòng trước các hoạt động chống phá của địch như: mua mắt, sừng trâu, bò, mua dâu ngô non để phá hoại sản xuất của ta.

Công tác củng cố, phát triển xây dựng lực lượng vũ trang được tiến hành khẩn trương, lực lượng dân quân xã được xây dựng, biên chế thành 6 trung đội với số lượng 310 người, chiếm 9,9% dân số và được tổ chức thành 3 lực lượng: lực lượng chiến đấu, lực lượng phục vụ chiến đấu, lực lượng bảo vệ dân, đưa dân đi sơ tán. Trong lực lương dân quân xã có 58% đảng viên của Chi bộ tham gia, đoàn viên có 86%, cán bộ chính quyền có 60%. Lực lượng dân quân, công an trên địa bàn xã luôn trong tình thế sẵn sàng chiến đấu. Hàng năm được học tập chính trị, huấn luyện quân sự theo kế hoạch của Ban Chỉ huy quân sự huyện, công an huyện. Lực lượng dân quân giữ các chốt biên giới được luân phiên thay thế, đảm bảo ăn, ngủ tại chốt, trực chiến 24/24 giờ, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa bàn. Công tác kiểm tra, chọn lọc, đưa ra khỏi lực lượng những dân quân vi phạm quy chế, kỷ luật được tiến hành thường xuyên. Qua đó, hoạt động tại các chốt dân quân xã đi dần vào nề nếp.

 Nhằm làm thất bại chiến tranh tâm lý, chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, Ban địch vận xã Đồng Văn được thành lập đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ ta và âm mưu thủ đoạn hoạt động của địch trong đồng bào các dân tộc để người dân xác định rõ nghĩa vụ trách nhiệm của mình trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh đó, các tổ, đội an ninh ở thôn, bản, đội sản xuất được thành lập để đảm bảo an ninh trật tự. Đội ngũ công an viên thường xuyên củng cố về tư tưởng và tổ chức, giáo dục về nhiệm vụ, chức năng. Trên địa bàn xã có 32 công an viên ở các Hợp tác xã và 23 tổ an ninh ở các đội sản xuất. Đây là lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Cấp ủy, chính quyền xã đã đặc biệt coi trọng công tác đăng ký, quản lý hộ tịch hộ khẩu, tạm trú tạm vắng và kết hợp với vận động quần chúng tố giác, phát hiện những kẻ gian, lạ mặt buôn bán các mặt hàng trái phép xuất hiện trên địa bàn xã.

Trong phong trào quyên góp ủng hộ bộ đội, dân quân, trong dịp tết âm lịch 1979-1980, nhân dân xã đã đóng góp, ủng hộ phục vụ chiến đấu cho lực lượng vũ trang của ta đóng quân trên địa bàn xã với 216 chiếc bánh chưg, 204 quả trứng gà, 4kg thịt lợn, 5000 kg củi đốt… Ngoài ra, Chi bộ Đảng xã đã huy động được 535 lượt ngựa thồ chuyên chở lương thực súng đạn cho bộ đội và cho cửa hàng đi sơ tán, huy động hàng ngàn công sửa hầm hào chiến đấu ở các chốt trên địa bàn xã. Đồng thời, nhiều hộ dân đã nhường nhà cho bộ đội, dân quân ở, đón thương binh về nhà chăm sóc.

Thực hiện kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt kết hợp với lấn chiếm biên giới từng bước, từ mức độ nhỏ nhưng không đạt kết quả, đầu năm 1984 địch đưa nhiều quân đoàn, sư đoàn ra biên giới, tăng cường các trận địa pháo binh mặt đất (chủ yếu trên hướng Hà Tuyên) thực hiện lấn chiếm biên giới ở cường độ cao. Ngày 2/4/1984 pháo binh địch đánh phá dữ dội trên toàn tuyến biên giới Hà Tuyên. Trong các tháng 4, 5, 6/1984, địch bắn hàng triệu quả đạn pháo, cối các loại, có ngày lên tới 5 vạn quả vào các mục tiêu quân sự, kinh tế, các thị trấn biên giới. Bộ binh địch luân phiên mở hàng chục cuộc tiến công lấn chiếm với nhiều thê đội cấp tiểu đoàn, trung đoàn vào phía Bắc huyện Vị Xuyên và huyện Yên Minh.

Tại biên giới huyện Đồng Văn, địch bắn hàng trăm quả pháo, cối vào các xã biên giới, gây thiệt hại về người và của. Địch lén lút tập kích nhiều lần vào các đồn biên phòng, các trận địa, bắt cóc bộ đội, dân quân, cán bộ và nhân dân, cướp bóc của cải của nhân dân ta đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại nhiều mặt, dùng gián điệp, biệt kích để móc nối, cài cắm, mua chuộc dụ dỗ nhân dân ta. Xóm Mã Lủ A, Mã Lủ B của xã Đồng Văn bị phía địch bắn phá, lực lượng dân quân xã tại chốt Mã Lủ A, Mã Lủ B đã chiến đấu kiên cường, giữ vững trận địa và bắt sống tên thám báo Chu Vĩnh Đức.

Công tác xây dựng, củng cố lực lượng dân quân chiến đấu được tăng cường một bước mới. Chi bộ Đảng đã đề ra qui chế 100% đảng viên trong độ tuổi và 100% đoàn viên, thanh niên trên địa bàn xã tham gia lực lượng dân quân. Từ đó, lực lượng dân quân xã được phát triển, gồm 713 người. 1 trung đội dân quân tập trung làm nghĩa vụ tại xã được thành lập, được hưởng các chế độ như bộ đội thường trực. Công tác giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự trong lực lượng dân quân được tăng cường, nhằm làm cho dân quân nắm chắc tình hình nhiệm vụ, trách nhiệm và vinh dự được đứng trong lực lượng vũ trang, nhận thức rõ chủ trương đường lối quân sự quốc phòng của Đảng và Nhà nước, âm mưu thủ đoạn hoạt động của kẻ thù, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Các lực lượng chuyên nghiệp quân sự như pháo binh, công binh, thông tin, trinh sát, hóa học trong lực lượng dân quân được biên chế, huấn luyện. Các trung đội dân quân sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự đã tiếp tục thực hiện nhiệm vụ lao động sản xuất.

Lực lượng công an, công an viên, bảo vệ được củng cố, tăng cường về số lượng, chất lượng hoạt động đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội từ cơ sở. Mỗi đội sản xuất có từ 1-2 tổ an ninh. Nhờ đó, công tác quản lý hộ tịch hộ khẩu, công tác kiểm tra, giám sát những đối tượng cư trú trái phép, các đối tượng tình nghi được tăng cường. Hàng năm, tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm đối với hoạt động của lực lượng công an viên đồng thời kiên quyết đưa ra khỏi lực lượng những người không đủ tư cách phục vụ.

Trong 3 năm 1984-1986 lực lượng an ninh và dân quân xã Đồng Văn đã điều tra, xử lý hàng chục vụ vượt biên trái phép và buôn bán hàng tâm lý, thu nộp nhiều mặt hàng chủ yếu là vỏ chăn con công, quần áo, vải, pin, đèn, bắt được 2 tên thám báo của địch xâm nhập vào địa bàn,… Tuy nhiên, tình trạng mất trật tự an ninh vẫn xảy ra. Riêng năm 1986 có tới trên 60 lượt người vượt biên trái phép. Một số người dân tiếp tay cho các đối tượng buôn bán hàng tâm lý, tình trạng trộm cắp vẫn xảy ra.

Thời gian này, do ảnh hưởng của chiến tranh biên giới, việc di dân khỏi vùng giáp biên giới làm cho 420 ha đất canh tác bị hoang hóa. Xã đã hoàn thành việc di dời 287 hộ dân cư giáp biên (Má Pắng, Má Tìa, Thiên Hương) về tuyến sau đảm bảo an toàn. Cấp ủy, chính quyền xã đặc biệt chú trọng giải quyết các chủ trương, chính sách hỗ trợ người dân về nơi ở mới, bố trí đất ở, đất sản xuất, vận động nhân dân xã giúp đỡ cây gỗ, ngày công dựng lại nhà cửa cho các hộ dân mới được di dời về nơi ở mới an tâm sản xuất. Việc di dời dân cư được hoàn thành vào tháng 6/1986, số đất đai thuộc khu vực vành đai biên giới được chuyển giao cho đồn Biên phòng và dân quân xã quản lý.

Nhiệm vụ phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống nhân dân, đảm bảo hậu cần tại chỗ phục vụ chiến đấu luôn được Chi bộ xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trước những khó khăn bất cập kéo dài trên phạm vi toàn quốc trong lĩnh vực phân phối lưu thông, thị trường giá cả, Chi bộ đã chỉ đạo các thôn, bản, Hợp tác xã dựa vào nội lực, tăng cường hợp tác liên kết, khai thác nguyên liệu, trao đổi hàng hoá, phát triển sản xuất, nỗ lực phấn đấu đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm, đáp ứng được nhu cầu đời sống của nhân dân, đảm bảo nhu cầu cung cấp cho lực lượng vũ trang chiến đấu.

Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, công tác phát triển sản xuất được đảm bảo đúng thời vụ. Công tác cày, cấy và việc chuẩn bị phân đạm, do, giống phục vụ cho sản xuất được tích cực thực hiện. Nhân dân xã đã tích cực sử dụng nguồn phân đạm của Nhà nước kết hợp tận dụng nguồn phân chuồng. Công tác xen canh gối vụ, tập trung phát triển các cây lương thực chính, tăng hệ số sử dụng đất và tích cực áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào cây trồng. UBND xã đã huy động hàng ngàn công lao động xây dựng các công trình thủy lợi nhằm bảo đảm nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân. Các cây lương thực chính như: lúa nước, lúa nương, ngô và các cây khác, như: sắn, dong riềng, tam giác mạch, khoai lang, đậu răng ngựa, đậu tương… phát triển mạnh. Chi bộ đã chỉ đạo đưa một số diện tích đất thuộc khu vực vành đai quân sự vào canh tác đồng thời tích cực vận động nhân dân xếp đá làm ruộng bậc thang, mỗi Hợp tác xã đảm bảo diện tích đất canh tác đạt 1,5 ha. Chi bộ Đảng xã đã đề ra phương án linh hoạt, đối với những diện tích không thể trồng lúa nước hoặc cày cấy không kịp thời vụ thì chuyển sang trồng các cây hoa màu.

Công tác quản lý, chỉ đạo phát triển sản xuất trong các Hợp tác xã được củng cố một bước. Ban Quản trị các Hợp tác xã được kiện toàn, triển khai nắm bắt lại diện tích đất đai, lao động và nhân khẩu để cân đối mức ăn và giao khoán đất đai cho các hộ xã viên. Phương án chia lương thực được thực hiện theo phương châm hài hòa giữa 3 lợi ích “Nhà nước, tập thể và cá nhân”. Căn cứ vào kết quả năng suất, sản lượng của từng Hợp tác xã đối với diện tích được giao, việc phân chia sản phẩm đạt trung bình từ 1,5 đến 2 kg/ngày công xã viên.

Công tác làm đường giao thông phục vụ sản xuất, chiến đấu được phát động thường xuyên. Dưới sự chỉ đạo của Chi bộ Đảng, các Hợp tác xã đã phân công xã viên phụ trách từng đoạn đường trên địa bàn xã. Khi tình trạng đường giao thông bị sạt lở do chiến sự, mưa bão, các xã viên đã tích cực tiến hành tu sửa đường giao thông. Từ đó, tuyến đường giao thông liên thôn, xóm luôn được thông suốt. Trong giai đoạn 1979-1986 nhân dân xã Đồng Văn đã đóng góp hàng ngàn ngày công, làm mới hàng chục km đường giao thông từ trung tâm xã đến thôn và các tuyến đường liên thôn, bản.

Dưới sự lãnh đạo sâu sát của Chi bộ Đảng xã, cuộc vận động “góp sức người, góp của” cho tuyến trước đã nhận được sự hưởng ứng sôi nổi của nhân dân. Nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn đã đóng góp hàng ngàn ngày công làm công sự chiến đấu, làm đường quốc phòng, vận chuyển đạn dược, lương thực, thực phẩm cho bộ đội. Hầu hết các gia đình trên địa bàn xã đều có con em đi bộ đội, vào dân quân và tham gia lực lượng dân công. UBND xã đã huy động hàng ngàn lượt dân công, hàng trăm con ngựa thồ để vận chuyển hàng quốc phòng, phục vụ xây dựng tuyến phòng thủ biên giới.

Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội, như: Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân xã đã phối hợp với chính quyền, các tổ chức đoàn thể làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực lao động sản xuất, thực hiện nghiêm túc đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tăng cường tổ chức các hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng cho hội viên, quần chúng nhân dân thông qua các ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn của đất nước. Qua đó, hội viên, quần chúng nhân dân từng bước nâng cao về nhận thức chính trị, nhiệt tình tham gia phong trào thi đua lao động sản xuất đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững đoàn kết dân tộc, đoàn kết quân dân, đặc biệt đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hội Phụ nữ xã được từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động, tích cực triển khai phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”,“Luống rau nuôi quân, luống rau tình nghĩa” quyên góp quà tặng thương binh, bộ đội nhân ngày lễ, tết… phong trào phát triển rộng khắp đã nhận được sự hưởng ứng tích cực và thu hút hàng trăm chị em tham gia. Đồng thời, Hội đã tổ chức vận động mỗi gia đình hội viên phát triển việc nuôi gà, trong đó ủng hộ bộ đội, dân quân ít nhất từ 1 con trở lên. Bên cạnh đó, hoạt động của các phân hội tại các thôn, bản đã phát huy được vai trò của chị em phụ nữ trong lao động sản xuất, tiết kiệm, bảo vệ trị an, đã tổ chức quyên góp hàng tấn rau xanh, hàng trăm kg thực phẩm phục vụ bộ đội, dân quân. Công tác phát triển hội viên được quan tâm, đến năm 1986, Hội Phụ nữ xã gồm 498 hội viên.

Đoàn Thanh niên xã đã phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt xung kích trên các lĩnh vực sản xuất, phục vụ chiến đấu. Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục lý tưởng cộng sản, nâng cao ý thức rèn luyện, giáo dục tư tưởng, vai trò trách nhiệm, lý tưởng phấn đấu và vận động đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia các hoạt động xã hội, giúp đỡ các gia đình chính sách, gia đình khó khăn được Ban Chấp hành Đoàn tích cực tổ chức. Hàng năm, chỉ tiêu thanh niên lên đường nhập ngũ, bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn xã luôn hoàn thành. Phong trào “3 xung kích” của Đoàn Thanh niên xã đã trở thành mục tiêu thôi thúc mỗi đoàn viên thanh niên ra sức phấn đấu, cống hiến tài năng trí tuệ của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và nhiều phong trào thi đua sôi nổi trong sản xuất được tích cực triển khai, như: thi đua làm phân xanh, lao động cộng sản XHCN… Đoàn Thanh niên xã đã huy động gần 1.000 công lao động cộng sản xây dựng các công trình phúc lợi xã hội. Bên cạnh đó, trong những năm 1979 - 1986, lực lượng thanh niên xã đã huy động, đóng góp hàng chục tấn lương thực, thực phẩm cho cán bộ chiến sĩ trong lực lượng dân quân.

Công tác tổ chức Đoàn không ngừng được tăng cường, củng cố, trong thời kỳ từ 1976-1986, tổ chức Đoàn xã phát triển từ 1 Chi đoàn cơ sở lên 9 Chi đoàn cơ sở, số lượng đoàn viên tăng từ 25 đoàn viên lên 101 đoàn viên.

Như vậy, trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do sự chống phá của các thế lực thù địch, thiên tai… dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng xã, nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn đã từng bước khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện Nghị quyết của Đảng, của Chi bộ Đảng xã đã đề ra và đạt được một số kết quả trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của huyện nói riêng, của tỉnh nói chung.

         (Còn nữa)

(1) Sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng nhập ngũ, sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì Tổ quốc cần.

(2) Đảm đang sản xuất và công tác, đảm đang việc gia đình, đảm đang chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

[1] Ngày 1/4/1976 Tỉnh Hà Tuyên được hợp nhất từ 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang theo Nghị quyết của Quốc hội khoá V, kỳ họp thứ 2 ngày 27/12/1975. 


Tin khác