Liên kết website

Thống kê truy cập

Giới thiệu

Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Đồng Văn (Tiếp phần 2)

20/09/2019 00:00 57 lượt xem

TTTĐT: ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN THỊ TRẤN ĐỒNG VĂN THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 - 2015)

IV. ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN THỊ TRẤN ĐỒNG VĂN THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 - 2015)

1. Đảng bộ và nhân dân thị trấn Đồng Văn trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội (1986 - 2000)

Ngày 26/9/1986 Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Đồng Văn lần thứ XIII được tiến hành. Trên tinh thần đổi mới tư duy, đổi mới phong cách lãnh đạo, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đã phân tích, đánh giá toàn diện sâu sắc những thành công và yếu kém trên mọi lĩnh vực của địa phương đồng thời đề ra nhiều chủ trương, giải pháp quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế hoạch toán kinh doanh XHCN, từng bước bố trí lại cơ cấu kinh tế và điều chỉnh đầu tư theo hướng tập trung cho 3 chương trình kinh tế lớn về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, chi viện sức người sức của cho tuyến phòng thủ biên giới, đánh thắng chiến tranh lấn chiếm của địch.

Thắng lợi về mặt quân sự kết hợp với công tác tuyên truyền ngoại giao năm 1987 đã làm thất bại âm mưu lấn chiếm biên giới và kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, giảm dần áp lực quân sự với ta ở biên giới. Từ cuối năm 1987, địch giảm dần các cuộc tiến công lấn chiếm qui mô lớn sang biên giới Hà Tuyên. Từ ngày 21/12/1988 đối phương ngừng tiến công lấn chiếm và pháo kích sang đất ta. Ngày 13/3/1989 đối phương rút khỏi 30 điểm lấn chiếm trên biên giới của tỉnh. Năm 1991 quan hệ bình thường giữa hai nước được thiết lập.

Cuối năm 1987 thực hiện quyết định của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, Ban Chỉ huy Quân sự xã Đồng Văn tiến hành giải thể trung đội dân quân tập trung, đưa chiến sĩ dân quân trở lại làm nòng cốt cho các đơn vị dân quân đồng thời sắp xếp lại lực lượng dân quân theo hướng tinh gọn, sẵn sàng chiến đấu cao. Đối với các hộ dân đã di rời khỏi biên giới, cấp ủy, chính quyền xã chuẩn bị kế hoạch đưa họ trở lại biên giới định cư, ổn định sản xuất.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII, Chi bộ Đảng đã mở đợt sinh hoạt chính trị quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt là đổi mới về công tác tổ chức và cán bộ, đổi mới về tư duy và phong cách lãnh đạo của Đảng, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật... Trên cơ sở đó đề ra chủ trương, biện pháp sát sao với điều kiện thực tế khách quan các vấn đề ở địa phương. Đối với nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp, Chi bộ triển khai rà soát, thống kê đo đạc, phân loại đất đai, đánh giá lại năng lực sản xuất của các Hợp tác xã và hộ nông dân. Trên cơ sở đó tổ chức lại sản xuất, thực hiện khoán gọn trong Hợp tác xã và hộ nông dân, giao đất, giao rừng cho tập thể và cá nhân tự chủ sản xuất kinh doanh.

Bám sát chủ trương của Đảng bộ huyện về việc chấn chỉnh, đổi mới công tác tổ chức, quản lý Hợp tác xã nông nghiệp; xây dựng mô hình kinh tế Hợp tác xã và mô hình kinh tế gia đình hộ nông dân, Chi bộ đã chỉ đạo điều chỉnh lại ruộng đất, đảm bảo công bằng, sử dụng ổn định lâu dài; chấn chỉnh và đổi mới về công tác tổ chức và quản lý Hợp tác xã nông nghiệp; đổi mới về tổ chức quy mô. Những Hợp tác xã có điều kiện thì tiếp tục nâng cao về trình độ quản lý, hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Những Hợp tác xã quy mô quá lớn, trình độ quản lý thấp, sản xuất trì trệ thì cương quyết tách nhỏ để điều hành khoán đến hộ gia đình. Tổ chức bộ máy quản lý gọn, có hiệu lực gồm chủ nhiệm và các đội trưởng hoặc trưởng xóm điều hành quản lý. Làm tốt công tác chuẩn bị các loại cây giống, con giống, phân bón cho cây lúa, ngô, các loại rau, đậu và phát triển chăn nuôi gia súc.

Thời điểm này, hạn hán kéo dài ảnh hưởng tới thời vụ các loại cây trồng, tình hình thiếu lương thực diễn ra gay gắt. Gía cả hàng hóa thị trường tăng mạnh, tiền lương của cán bộ và lực lượng vũ trang giảm sút, nhu cầu hàng hóa thiết yếu của nhân dân không đảm bảo. Tình hình trên đã gây ra tâm trạng hoài nghi, dao động, giảm sút ý chí chiến đấu ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân. Chi bộ Đảng và nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn bước vào giai đoạn mới với nhiều khó khăn, thách thức. Bám sát chủ trương đường lối đổi mới của Đảng, Chi bộ xã Đồng Văn đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc chủ động khắc phục khó khăn, tích cực lao động sản xuất, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, trong đó tập trung thực hiện chương trình sản xuất lương thực - thực phẩm, đáp ứng yêu cầu đời sống nhân dân trước mắt và lâu dài.

Năm 1986 xã Đồng Văn có 581 hộ, 3.012 nhân khẩu. Số lao động chính có 720 người, lao động phụ có 525 người, chia thành 17 Hợp tác xã, trong đó có 6 Hợp tác xã trồng lúa, 11 Hợp tác xã chuyên canh cây ngô. Trong năm, 9.960 kg giống lúa đã được đưa vào canh tác, năng suất bình quân 20-26kg/1 kg giống; 7.340 kg giống ngô đã được đưa vào canh tác, năng suất bình quân đạt từ 60-73kg/1 kg giống. Lương thực bình quân đầu người đạt 296 kg/năm chưa kể các loại hoa màu.

Nhằm khắc phục những hạn chế trong thực hiện Chỉ thị 100-CT/TW và triệt để giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, bảo đảm lợi ích của người lao động, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 (Khoán 10).Đảng ủy xã tổ chức thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW (Khoán 10) của Bộ Chính trị. Nghị quyết đã đề ra một cơ chế khoán mới trong Hợp tác xã nông nghiệp thay thế cơ chế khoán theo Chỉ thị 100, xác định Hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán với Hợp tác xã (khoán hộ). Nghị quyết đã đáp ứng yêu cầu cấp bách của sản xuất và đời sống, hợp với lòng dân. Đánh dấu một bước tiến quan trọng về đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Chi bộ xã đã lãnh đạo nhân dân trên địa bàn xã thực hiện Nghị quyết 10 của Trung ương, ruộng đất được giao cho từng hộ nông dân theo định hướng XHCN, phát triển kinh tế nhiều thành phần, sức sản xuất được giải phóng. Xã viên các Hợp tác xã được sử dụng những giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, kết hợp với ứng dụng biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, góp phần tăng sản lượng lúa. Dưới sự chỉ đạo tích cực của Chi bộ xã, sản xuất nông nghiệp, trong những năm 1988 - 1990 của xã Đồng Văn đã có bước phát triển đáng phấn khởi, diện tích, năng suất, sản lượng lương thực đều tăng từ 13-17%/năm. Đàn gia súc, gia cầm tăng trưởng bình quân 12 - 15%/năm.

Công tác xây dựng hệ thống chính trị được thực hiện nghiêm túc, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng. Công tác xây dựng Đảng được chú trọng đặc biệt. Thông qua các kỳ sinh hoạt chính trị, Chi bộ Đảng đã chỉ đạo việc tổ chức lồng ghép quán triệt Nghị quyết Hội nghị 2,3,4,5 (khóa VII) của Trung ương Đảng và các Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh, huyện. Trong đó, Nghị quyết Trung ương 3 về xây dựng và chỉnh đốn Đảng được triển khai sâu rộng, nâng cao ý thức của cán bộ, đảng viên; 100% đảng viên được kiểm điểm góp ý tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3. Qua quá trình nghiêm túc triển khai thực hiện, những vấn đề hạn chế, yếu kém, mất đoàn kết nội bộ từng bước được giải quyết.

Công tác văn hóa - giáo dục được chú trọng, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập được đầu tư. Cấp ủy, chính quyền xã đã vận động nhân dân đóng góp công sức, vật liệu làm mới 1 ngôi nhà 3 gian, trong đó 2 gian phục vụ cho công tác giảng dạy, 1 gian dành cho việc bố trí chỗ ở cho giáo viên. Hàng chục bộ bàn ghế, giường, tủ, được đóng mới. Cuộc vận động thực hiện nếp sống văn hóa mới được triển khai tích cực. Để tránh tình trạng gây tốn kém cho nhân dân, Chi bộ Đảng đã vận động tổ chức ma chay, cưới hỏi đơn giản, tiết kiệm. Bên cạnh đó, việc đăng ký kết hôn trước đám cưới đã trở thành nếp sống tiến bộ mới được nhân dân tích cực thực hiện.

Thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-TU ngày 4/1/1988 của Tỉnh ủy, Nghị quyết số 07-NQ/HU ngày 28/4/1988 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về nhiệm vụ xây dựng tỉnh, huyện thành Khu vực phòng thủ vững chắc, phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, Chi bộ xã đã tập trung nghiên cứu các kế hoạch, hướng dẫn của cấp trên về nhiệm vụ xây dựng Khu vực phòng thủ tỉnh, huyện trong giai đoạn mới và đề ra kế hoạch, biện pháp cụ thể, từng bước tổ chức xây dựng Khu vực phòng thủ xã theo chủ trương, kế hoạch thống nhất và luyện tập, diễn tập theo kế hoạch.

Những nội dung cơ bản trong nhiệm vụ xây dựng Khu vực phòng thủ, phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch được cấp ủy, chính quyền xã xác định cần tập trung triển khai thực hiện những năm 1988-1990 là: Xây dựng về chính trị, tư tưởng làm cho cán bộ, đảng viên và toàn dân nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ chế độ XHCN; xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, lấy xây dựng cơ sở Đảng làm then chốt. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh; xây dựng lực lượng dân quân, công an viên tinh gọn, rộng khắp, coi trọng chất lượng chính trị, có số lượng hợp lý, đáp ứng yêu cầu chiến đấu và giữ gìn an ninh ở cơ sở. Thực hiện tốt công tác quản lý giáo dục, huấn luyện lực lượng dự bị động viên. Lực lượng dân quân tự vệ được tinh giảm theo hướng “dân bầu, dân cử, dân chăm lo”.

Thực hiện Công văn số 137-CV/BTC ngày 18/7/1989 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về việc đồng ý nâng cấp Chi bộ lên Đảng bộ cơ sở. Ngày 28/7/1989 Ban Chấp hành Huyện ủy Đồng Văn ra Quyết định số 36-QĐ/HU nâng cấp Chi bộ Đảng xã Đồng Văn thành Đảng bộ xã Đồng Văn. Ngày 15/8/1989 Huyện ủy Đồng Văn đã ra Quyết định công nhận 7 đồng chí (gồm các đồng chí: Lương Huy Thìn, Bí thư Đảng ủy xã; Nguyễn Văn Kin, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã; Lầu Sính Giàng, Phó Bí thư Đảng ủy xã và 4 đồng chí đảng ủy viên) vào Ban chấp hành Đảng bộ xã nhiệm kỳ 1989-1990.

Quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ huyện về việc chống vượt biên trái phép và buôn bán hàng hóa tâm lý, Chi bộ Đảng xã đã chỉ đạo việc tăng cường công tác quản lý hộ tịch hộ khẩu. Đảng bộ xã lãnh chỉ đạo chính quyền, chủ nhiệm các Hợp tác xã tuyên truyền đến xã viên, quần chúng nhân dân trên địa bàn không vượt biên trái phép. Hàng tuần tổ chức gặp mặt đối tượng chưa có hộ tịch hộ khẩu, các đối tượng vượt biên trái phép để làm công tác tuyên truyền, vận động họ thực hiện tốt quy định, ổn định cuộc sống. Đối với những đối tượng cố tình vi phạm, Chi bộ Đảng xã đã lãnh chỉ đạo việc thực hiện nghiêm túc những biện pháp răn đe, xử lý cứng rắn.

 Bước sang năm 1990 tình hình đất nước ta có những chuyển biến tích cực, nền kinh tế sau một thời gian dài khủng hoảng đã có dấu hiệu phát triển dưới ánh sáng chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng. Mặc dù vậy, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nước ta còn gặp những khó khăn hết sức gay gắt. Sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đã ảnh hưởng xấu đến các mặt kinh tế, chính trị xã hội của nước ta. Bọn phản động quốc tế và các thế lực thù địch tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ Đảng Cộng sản và CNXH ở nước ta.

Hoạt động “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch những năm đầu thập niên 1990 diễn ra rất phúc tạp, chúng lợi dụng khoét sâu các mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo và mâu thuẫn nội bộ, tuyên truyền di cư tự do, truyền đạo trái phép; kích động chia rẽ đoàn kết giữa quân đội với nhân dân và cấp uỷ chính quyền, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đòi thực hiện “Dân chủ hoá” để gây mất ổn định về chính trị, làm suy yếu đến vô hiệu hoá chính quyền cơ sở những địa bàn xung yếu.

Thời kỳ 1991-1995 tình hình an ninh trật tự ở biên giới và nội địa vẫn diễn biến phức tạp: Tình trạng vi phạm chủ quyền biên giới, xâm nhập vũ trang trái phép, đập phá cột mốc, xâm canh, xâm cư xảy ra thường xuyên. Trong nội địa, hoạt động tuyên truyền đạo trái pháp luật, di cư tự do xảy ra ở một số nơi. Nhiệm vụ phòng chống âm mưu “Diễn biến hoà bình” trở nên cần thiết cấp bách.

Tháng 9/1991, Đại hội Đảng bộ xã Đồng Văn được tổ chức. Đại hội đã đánh giá kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong những năm tiếp theo là: Tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp, trong đó là đẩy mạnh phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; tăng cường thực hiện công tác văn hóa, y tế, giáo dục; củng cố quốc phòng - an ninh; tăng cường thực hiện công tác xây dựng Đảng, chính quyền, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể.

Bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã, bên cạnh những kết quả đạt được trong việc ổn định đời sống nhân dân, tình trạng tranh chấp ruộng đất đã xảy ra do ảnh hưởng của một số phần tử xấu đã lợi dụng Nghị quyết 10-NQ/TW (khoán 10) kích động một số người dân đòi lại ruộng đất từ thời ông cha, gây ra tình hình phức tạp trên địa bàn xã. Một số bà con hoang mang dao động, không chú ý chăm sóc ruộng đồng, một số thì mua bán đất đai dưới nhiều hình thức. Tình trạng đó dẫn đến việc sản xuất trì trệ, năng suất giảm rõ rệt. Bên cạnh đó, việc tái trồng cây thuốc phiện trên địa bàn xã diễn ra phức tạp.

Tháng 6/1993, Huyện lỵ Đồng Văn từ xã Lũng Phìn chuyển về trung tâm xã Đồng Văn. Chủ trương trên đã nhận được sự hưởng ứng tích cực của nhân dân. Tuy nhiên, do kẻ xấu lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương của ta nên một số quần chúng phản ứng chống đối việc di dân, giải phóng mặt bằng để xây dựng cơ quan huyện lỵ. Sớm nắm bắt được tình hình thực tiễn, cấp ủy, chính quyền xã đã tích cực tuyên truyền, vận động để nhân dân hiểu, nắm rõ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Nhờ quá trình kiên trì vận động, nhân dân trên địa bàn xã đã thực hiện nghiêm, ủng hộ chủ trương của Đảng bộ huyện đã đề ra.

Trên lĩnh vực phát triển kinh tế, xác định điều kiện tự nhiên của xã còn nhiều khó khăn, là xã vùng cao núi đá, khí hậu thời tiết khắc nghiệt, trình độ canh tác độc canh, lạc hậu. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân còn nhiều khó khăn. Đảng ủy xã vẫn quyết tâm đề ra chủ trương và xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, chuyển từ nền sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, định hướng cho nhân dân phát triển cây lương thực chính là cây ngô, lúa; đồng thời phát triển mạnh cây chè, cây dược liệu, cây ăn quả và phát triển chăn nuôi thích hợp với điều kiện cụ thể của từng thôn, bản, Hợp tác xã. Phát triển mạnh các nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống để tăng thu nhập cho gia đình, nâng cao đời sống.

Qua quá trình triển khai thực hiện, năm 1992 tổng sản lượng lương thực quy thóc trên địa bàn xã đạt 700.000 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 17,7kg/tháng. Từ đó, đã góp phần tích cực trong việc giảm số hộ đói còn 0,8%.  Bước sang năm 1993, thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ xã đã đề ra về chuyển đổi giống lúa, ngô mới, nhân dân các dân tộc trong xã đã tích cực sử dụng các giống lúa, ngô mới vào sản xuất nông nghiệp đạt 80-85% diện tích. Tuy nhiên, do thời tiết có nhiều diễn biến thất thường, mưa lũ xảy ra đã gây nên tình trạng sạt lở đất đai, trong đó ảnh hưởng không nhỏ đến diện tích, năng suất, sản lượng. Tổng sản lượng lương thực quy thóc đã giảm xuống còn 580.000 tấn. Bình quân lương thực đầu người còn 14,4 kg/người/tháng.

Trước tình hình nhiều hộ dân trên địa bàn xã không có đất để xây dựng nhà ở, Đảng bộ xã đã đề ra chủ trương đưa 1,87 ha diện tích đất sản xuất nông nghiệp để xây dựng nhà ở cho nhân dân, nhằm tháo gỡ những khó khăn trước mắt cho nhân dân để nhân dân ổn định cuộc sống. Đồng thời, Đảng bộ xã đã vận động nhân dân sử dụng nguồn vốn được hỗ trợ để đầu tư phục hóa 10ha ruộng đất và tăng cường xếp đá làm nương bậc thang được 10ha.

Được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, nhân dân các dân tộc đã tích cực thực hiện Chương trình xóa đói giảm nghèo theo tinh thần Dự án 327. Nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã được hỗ trợ 350 kg giống ngô BnS, 170 kg giống Q2, 150 kg giống lúa (Sán Díu), 30 tấn phân lân, phân đạm để phục vụ cho vụ mùa và cung cấp các giống cây trồng như: 500kg giống hạt chè cho diện tích 10 ha, 2 ha mận tam hoa, 0,4 ha cây mỡ, táo và 5.000 cây đỗ trọng…. Năm 1995 nhân dân các dân tộc được vay 225.251.200 đồng từ ngân sách Nhà nước để phát triển sản xuất. Tuy nhiên, do thời tiết khô hạn kéo dài và một số hộ dân chăm sóc chưa tích cực, kết quả sản xuất nông nghiệp chưa cao, năng suất đạt bình quân 15 tạ/ha, sản lượng lương thực quy thóc năm 1995 đạt 1.156 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 183,96kg/người/năm (mục tiêu đề ra năm 1995 đạt 240 kg). Cây đỗ trọng đạt 50%, cây chè đạt 26%, các loại cây ăn quả khác đạt năng suất thấp.

Thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-TU ngày 14/4/1992 của Tỉnh ủy về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh mà trọng tâm là phòng chống “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, Đảng ủy đã chỉ đạo UBND xã lập kế hoạch và chỉ đạo các thôn, bản, Hợp tác xã xây dựng xã Đồng Văn thành khu vực phòng thủ vững chắc theo 4 mục tiêu:

- Xây dựng cơ sở vững mạnh (là mục tiêu trọng tâm).

- Xây dựng hệ thống chính trị (là mục tiêu then chốt).

- Xây xựng phát triển kinh tế xã hội là nền tảng.

-  Củng cố quốc phòng - an ninh là trọng yếu. 

 Cấp ủy, chính quyền xã đã quán triệt thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 60 của Bộ Chính trị, Quyết định 135 của Hội đồng Bộ trưởng về tấn công các loại tội phạm, giữ vững an ninh trật tự; sử dụng nhiều biện pháp tích cực, chủ động phòng ngừa và tấn công tội phạm; tích cực tuyên truyền giáo dục và phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Tích cực củng cố mạng lưới an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng dân quân, công an viên rộng khắp ở các thôn, bản, Hợp tác xã; Tăng cường các biện pháp nghiệp vụ về quản lý địa bàn, quản lý đối tượng, quản lý hộ tịch, hộ khẩu. Tổ chức nhiều đợt truy quét tội phạm, đưa ra xét xử những trường hợp gây án. Nhờ vậy tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn xã luôn được giữ vững.

Trong những năm 1991-1995, thực hiện chủ trương của Đảng, Đảng bộ xã đã lãnh chỉ đạo nhân dân đưa 91 kg giống cây cải dầu vào canh tác để thay thế diện tích trồng cây thuốc phiện. Tuy nhiên, do mới được triển khai thực hiện, nhiều hộ dân chưa thực sự thấy hết giá trị kinh tế và vai trò của cây cải dầu, chưa tích cực trồng, chăm sóc, cùng với đó ảnh hưởng của diễn biến thời tiết mưa lũ và khô hạn, đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, kết quả đạt thu hoạch chỉ đạt 60%. Tuy vậy thành công lớn nhất là đã hoàn toàn xóa bỏ được diện tích trồng cây thuốc phiện “cái chết trắng” đã từng tồn tại hàng trăm năm nay ở Đồng Văn.

Về chăn nuôi, Đảng bộ xã đã lãnh chỉ đạo nhân dân tranh thủ nhận sự hỗ trợ từ chủ trương khuyến khích phát triển chăn nuôi của Đảng, Nhà nước. Các hộ dân đã tận dụng nguồn vốn được hỗ trợ để đầu tư chăn nuôi gia súc, gia cầm. Qua đó, số lượng gia súc, gia cầm trên địa bàn xã phát triển: đến năm 1995 đàn trâu có 261 con, đàn bò có 988 con, đàn dê có 203 con, đàn lợn có 923 con, đàn ong có 195 tổ. Tuy nhiên, do dịch bệnh, một số loại gia súc khác có chiều hướng giảm.

 Công tác bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng được chú trọng. Việc giao đất giao rừng cho từng hộ xã viên trồng cây phủ xanh đồi trọc, khoanh nuôi trồng rừng đầu nguồn, không khai thác rừng được thực hiện nghiêm túc. Đảng bộ xã đã lãnh đạo việc kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm việc khai thác rừng đồng thời đề ra biện pháp hỗ trợ giống cây đối với các hộ xã viên trồng rừng. Trong những năm 1992-1995, xã đã tổ chức giao 117,3 ha rừng cho 30 hộ, phát triển rừng tập trung với 196,6 ha tại các xóm Thiên Hương, Lài Cò, Mã Lủ, Bản Mồ. Trong đó có khoảng 7.850 cây dược liệu, 700 cây ăn quả. Đồng thời, diện tích đất trồng rừng được mở rộng với tổng diện tích 18.326 ha tại 20 hộ trên địa bàn xã. Trong đó, 10 ha cây bạch đàn, 4 ha cây mỡ, 2 ha cây keo, 1,2 ha cây sa mộc… Tuy nhiên, nhận thức của người dân về việc bảo vệ, chăm sóc rừng chưa cao, việc chăn thả gia súc tự do đã gây ảnh hưởng đến việc phát triển cây con. Việc khai thác rừng làm nương rẫy vẫn còn xảy ra.

Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, như: sản xuất gạch, ngói, vôi… được giữ vững và phát triển. Trong đó, phong trào phát triển sản xuất ngói đạt 176/720 hộ, chủ yếu là các thôn có đồng bào các dân tộc Tày, Giấy sinh sống. Nhiều thôn nhân dân đã tích cực thực hiện việc lợp mái ngói đạt 98%, kể cả công trình chuồng trại, điển hình là xóm Đồng Thanh. Đảng bộ xã đã lãnh chỉ đạo trong việc tạo điều kiện cho 8 tổ hợp doanh máy xay sát (máy sát bột, sát đá phục vụ cho xây dựng) nhờ đó đã phục vụ nhu cầu của nhân dân trên địa bàn xã và nhu cầu xây dựng cơ quan huyện lỵ; đồng thời từng bước chuyển đổi từ sản xuất tự cung tự cấp sang phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, quy mô nhỏ bé do chưa được đầu tư. Các tổ rèn đúc phát triển chậm do khó khăn về nhiên liệu, chất đốt và than.

Công tác văn hóa - giáo dục nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe nhân dân được tiến hành thường xuyên. Căn cứ vào nhiệm vụ, chỉ tiêu trên giao, hàng năm, Đảng ủy, HĐND, UBND xã xây dựng kế hoạch, chương trình hành động trên các mặt. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội có kế hoạch hành động triển khai thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ. Trước tình hình tỷ lệ mù chữ còn cao, Đảng bộ xã đã chủ động phối hợp với phòng giáo dục huyện mở các lớp xóa mù chữ tại thôn, bản được 5 điểm trường, trong đó 2 điểm trường mẫu giáo, 3 điểm trường tiểu học, nâng tổng số điểm trường trên địa bàn xã là 15 điểm trường tại 15/23 thôn, với tổng số học sinh là 412 cháu, học sinh đi học được cấp đầy đủ sách giáo khoa và giấy bút học tập. Năm 1992 xã mở thêm điểm trường ở các thôn, bản xa xôi, hẻo lánh như: Thiên Hương, Mã Lủ... nhằm tạo điều kiện cho các cháu được đến trường đồng thời tổ chức vận động được 22 cháu đi học trường thiếu nhi nội trú, 18 học sinh học trường bổ túc, 14 học sinh học trường sư phạm tỉnh. Đội ngũ giáo viên được tăng cường về số lượng và chất lượng. Đời sống các thầy cô giáo được quan tâm hơn, chất lượng dạy và học được nâng lên rõ rệt.

Chất lượng công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe và khám chữa bệnh cho nhân dân được nâng lên. Trong đó, công tác phòng chống dịch bệnh được đặc biệt quan tâm. Công tác tiêm chủng theo chương trình mục tiêu quốc gia đạt 72%. Ban Dân số kế hoạch hóa gia đình hoạt động hiệu quả. Toàn xã có 279 người áp dụng các biện pháp tránh thai, đạt 40%. góp phần giảm tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên năm 1994 là 3,5%, năm 1995 còn 2,74%.

Phong trào văn hóa - văn nghệ, thể dục thể thao được triển khai thực hiện tốt. Hàng năm, nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn, ngày tết các cuộc thi ca hát, trò chơi dân gian và các hoạt động giao hữu bóng đá, bóng chuyền… diễn ra thường xuyên. Các chính sách xã hội đối với các gia đình có công với cách mạng, phong trào đền ơn đáp nghĩa, trợ giúp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cứu trợ thảm họa cộng đồng... được quan tâm triển khai thường xuyên, kịp thời. Các tệ nạn xã hội, như: trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút giảm đáng kể. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh năm 1994 có 65%, năm 1995 còn 50%. Tình trạng tranh chấp đất đai được giải quyết cơ bản.

Trong xây dựng tổ chức cơ sở Đảng đã chấp hành tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách. Đảng ủy xã đã xây dựng, duy trì chặt chẽ chế độ làm việc, sinh hoạt chính trị theo quy định; chấp hành chế độ tự phê bình, phê bình, chế độ kiểm tra giám sát theo Điều lệ Đảng. 100% Chi bộ cơ sở đều xây dựng được quy chế làm việc đúng với Điều lệ Đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn phát huy được vai trò tiền phong gương mẫu, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm. Trong nhiệm kỳ Đại hội I (1991-1995) Đảng bộ đã phát triển được 8 đảng viên mới đến năm 1995 Đảng bộ xã có 47 đảng viên sinh hoạt ở 5 Chi bộ cơ sở. Kết quả phân tích chất lượng đảng viên năm 1995 có 25/44 đảng viên loại 1; 13 đảng viên loại 2 và 6 đảng viên loại 3. Tuy nhiên, trình độ kiến thức và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn thấp, đặc biệt là đảng viên nông thôn; việc chấp hành chế độ sinh hoạt Đảng còn thất thường, việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở một số Chi bộ Đảng chưa được triển khai nghiêm túc.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, Nghị quyết Đảng bộ huyện lần thứ XVI, Đảng bộ xã Đồng Văn đã đề ra nhiệm vụ cần tập trung lãnh chỉ đạo trong giai đoạn 1996-2000 là: khai thác mọi nguồn lực làm chuyển biến một bước quan trọng về phát triển kinh tế xã hội; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phá thế độc canh, phát triển sản xuất nông nghiệp, ngành nghề tiểu thủ công truyền thống. Tập trung phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có thế mạnh, giá trị kinh tế cao, làm chuyển biến căn bản nền sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa. Đảm bảo nguồn vốn phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp, chăn nuôi. Thực hiện thắng lợi mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

Trong sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ xã đã chỉ đạo phát triển cây lương thực chính là lúa, ngô; tăng cường áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh sử dụng các loại cây trồng có năng suất cao như: giống ngô mới, cây đậu tương, cây chè… Với chủ trương linh hoạt, Đảng bộ xã đã chỉ đạo chuyển đổi số diện tích đất nông nghiệp không cấy lúa được trong vụ khô chuyển sang trồng các cây hoa màu đồng thời tích cực nghiên cứu trồng thí điểm các loại rau đậu, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương.

Dưới sự chỉ đạo tích cực của Đảng bộ xã, diện tích gieo trồng hàng năm không ngừng được mở rộng. Việc gieo trồng giống mới có năng suất cao được nhân dân chú trọng. Diện tích sử dụng giống lúa lai mới năm 1996 chiếm 30%, đến năm 2000 tăng lên 85%; năng suất bình quân đạt 45 tạ/ha. Diện tích gieo trồng giống ngô mới năm 1996 đạt 100 ha đến năm 2000 tăng lên 215,5 ha; năng suất bình quân đạt 22 tạ/ha. Diện tích cây đậu tương giống mới năng suất cao năm 2000 đạt 62,8 ha (tăng 35,3 ha so với năm 1996). Các cây trồng khác như: khoai tây, khoai lang, rau, hoa màu… được đầu tư mở rộng diện tích. Đã hình thành một số vùng chuyên canh như chè (ở 3 xóm phố và Thiên Hương với 6,74 ha), đỗ trọng (20.195 ha), cây ăn quả (cây mơ có 2.873 cây, táo 500 cây, hồng 500 cây), cam, cà phê, lê… phát triển theo mô hình kinh tế hộ gia đình theo hướng sản xuất hàng hóa. Nhờ việc tích cực triển khai thực hiện các biện pháp nâng cao năng suất, nên tổng sản lượng lương thực quy thóc tăng từ 1.137 tấn năm 1996 lên 1.438 tấn năm 1999 (tăng 301 tấn). Bình quân lương thực đầu người tăng từ 312 kg/năm 1996 lên 352 kg/năm 2000.

Sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định đã từng bước xóa đói giảm nghèo, cải thiện đáng kể đời sống nhân dân. Nhiều hộ đạt mức thu nhập khá. Số hộ đói giảm dần, tỷ lệ đói nghèo năm 1999 còn 34%; số hộ khá, giàu đạt 20,2%  (tăng 16% so với năm 1996). Năm 2000, 42/842 hộ gia đình trên địa bàn xã đã thực hiện mô hình gia đình sản xuất giỏi vươn lên làm giàu chính đáng. Tuy vậy, trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn xảy ra tình trạng nhân dân chưa thực sự đổi mới tư duy, chủ động áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, đặc biệt là tốc độ đưa giống ngô, lúa mới vào sản xuất còn chậm, chưa đồng bộ.

Thực hiện việc đưa dân trở lại vùng biên giới định cư theo Chỉ thị 06-CT/TU của Tỉnh ủy và Chỉ thị 04-CT/HU của Huyện ủy, xã Đồng Văn đã đưa 112 hộ, 566 nhân khẩu hồi hương từ tuyến 2 trở lại vùng biên giới định cư, ổn định sản xuất, góp phần bảo vệ biên giới Tổ quốc.

Trong phát triển chăn nuôi, Đảng bộ xã đã vận động phát huy nội lực và tranh thủ nhận sự giúp đỡ từ các chương trình dự án của Nhà nước để phát triển đàn gia súc, gia cầm. Chăn nuôi được phát triển theo hình thức kinh tế hộ gia đình là chính, gắn với ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, từng bước phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm được thực hiện thường xuyên. Do đó, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Năm 1996 số lượng đàn bò có 1.015 con, đàn dê có 400 con, đàn trâu có 400 con, ong mật có 200 tổ; đến năm 2000 đàn bò có 1.093 con… Đã chú trọng tạo nguồn giống để phát triển đàn lợn, tổng đàn lợn có 800 con, trong đó, lợn nái là 50 con, đáp ứng tối thiểu nhu cầu về giống.

Công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng đạt được kết quả tích cực, đã kịp thời động viên khuyến khích nhân dân phát triển kinh tế lâm nghiệp. Đất lâm nghiệp của xã có 494 ha. UBND xã đã nghiêm túc xử lý những trường hợp vi phạm việc khai thác rừng, đồng thời thực hiện nghiêm túc việc đóng cửa rừng gắn chặt với quy định đồi núi đất 30 độ trở lên đều phải trồng rừng, không được khai thác làm nương rẫy và sử dụng không đúng mục đích. Trong những năm 1994-1996, đã có 2.155, 85 ha diện tích rừng được giao cho tập thể và cá nhân quản lý. Năm 1996 đã trồng được 3.060 cây gỗ gắn với trồng các loại cây đặc sản, cây ăn quả; diện tích đất lâm nghiệp đạt 145 ha. Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật bảo vệ rừng được tăng cường nên không có hiện tượng chặt phá rừng trái phép.

Các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống như: sản xuất ngói, gạch, xay đá... được chú trọng đầu tư phát triển, đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ bản, tạo việc làm. Trên địa bàn xã có 10 lò ngói, 2 lò gạch và 1 máy xay đá. Sản phầm hàng hóa từ tiểu thủ công nghiệp truyền thống được phong phú đa dạng, giá cả ổn định.

Bên cạnh đó, thương nghiệp tư nhân được khuyến khích phát triển, khu vực phố cổ và chợ là trung tâm trao đổi, giao lưu hàng hóa. Nhưng năm qua, việc thu thuế sát sinh tại chợ chiếm tỷ lệ cao, chiếm 80% trở lên.

Công tác xây dựng cơ bản, giao thông nông thôn phát triển mạnh. Tuyến đường ô tô từ suối bờ Hồ đi Thiên Hương, Mã Lủ đến sông Nho Quế đã được mở và đưa vào sử dụng. Đường giao thông từ xã đến các thôn, bản được nâng cấp, đi lại dễ dàng. Hàng năm, Đảng bộ xã đề ra chủ trương vận động nhân dân sau vụ thu hoạch mỗi hộ cử 1 người tham gia 10 ngày lao động công ích để tu sửa đường dân sinh. Trong những năm 1996-2000, nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn đã đóng góp được 11.800 ngày công làm đường dân sinh, xây dựng trụ sở và các công trình phúc lợi xã hội.

Về văn hóa - giáo dục, nhờ sự đầu tư của Nhà nước, sự đóng góp của nhân dân, cơ sở vật chất trang thiết bị của 10 trường học với 52 phòng học và một số điểm trường trên địa bàn được đầu tư nâng cấp. Đến năm 2000 đã có 13 điểm trường được xây dựng mới, đáp ứng nhu cầu học tập từ lớp 1- 4 cho 935 em học sinh; 18/23 thôn có trường học, 5 điểm trường mẫu giáo có với 85 cháu. 100% các cháu trong độ tuổi từ 6-14 được đến trường. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên, hàng năm, tỷ lệ học sinh được lên lớp đạt 95%. Tình trạng mù chữ đã giảm đáng kể, năm 1998 xã Đồng Văn được công nhận đạt chuẩn Quốc gia xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.

Văn hóa, thông tin đã từng bước đổi mới về nội dung và hình thức hoạt động, hướng về xóm, bản để tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy ước làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa mới được xây dựng và thực hiện có hiệu quả. Năm 2000 xã Đồng Văn có 120 hộ đạt gia đình văn hóa, thôn Thiên Hương được chọn làm điểm xây dựng làng văn hóa. Phong trào lợp ngói hóa đã được nhân dân tích cực thực hiện, đạt 303 hộ chiếm 36%. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được nâng cao. Công tác đấu tranh bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan, theo đạo trái phép được đẩy mạnh.

Công tác y tế, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân được tăng cường. Cơ sở vật chất tại trạm xá xã được củng cố. Hàng năm, công tác tiêm chủng phòng bệnh cho trẻ em được duy trì thực hiện khá nề nếp. Việc cấp, phát thuốc chữa bệnh cho nhân dân theo chế độ bảo hiểm xã hội được đảm bảo. Các trang thiết bị phục vụ cho khám, chữa bệnh và chất lượng khám chữa bệnh từng bước được nâng cao. Năm 1999, số lượt người khám chữa bệnh là 1.154 lượt người; trong 6 tháng đầu năm 2000, có 1.759 lượt người khám chữa bệnh. Việc phòng chống sốt rét, phòng chống bướu cổ và Chương trình y tế quốc gia được thực hiện có hiệu quả. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được đẩy mạnh, nhờ đó tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đã giảm từ 2,25% năm 1996 xuống còn 1,7% năm 2000.

 Công tác xây dựng và hoạt động trong Khu vực phòng thủ, phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” được thực hiện theo kế hoạch hàng năm của UBND huyện. Đảng bộ xã đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân do lực lượng dân quân, an ninh làm nòng cốt; ngăn chặn có hiệu quả các tệ nạn xã hội và tội phạm, kịp thời giải quyết thỏa đáng các tranh chấp, khiếu kiện của nhân dân, giữ vững an ninh biên giới và nội địa. Lực lượng dân quân, công an viên thôn, bản được chọn lọc, biên chế phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.

Công tác xây dựng hệ thống chính trị thường xuyên được củng cố. Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, chú trọng thực hiện trên cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 về đổi mới, chỉnh đốn Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã không ngừng học tập nâng cao nhận thức chính trị, năng lực công tác, nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, kịp thời khắc phục những yếu kém tồn tại, tháo gỡ những khó khăn, tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên được đổi mới theo hướng trẻ hóa cán bộ. Trong những năm 1996-1999, Đảng bộ xã đã cử 3 cán bộ tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tại tỉnh, 4 cán bộ học trung cấp chính trị tại huyện. Một số cán bộ được cử đi học Trung học cơ sở. Công tác phát triển đảng được chú trọng, đến năm 1999 Đảng bộ xã có 63 đảng viên, sinh hoạt ở 6 chi bộ trực thuộc. Đến 6/2000 đã xóa xong thôn bản trắng về đảng viên.

Công tác xây dựng chính quyền được quan tâm. Hoạt động kiểm tra, giám sát của HĐND được tăng cường theo đúng luật định. UBND xã không ngừng nâng cao vai trò quản lý Nhà nước; đã xây dựng và hoạt động theo quy chế làm việc cụ thể, trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, quốc phòng - an ninh.

 Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từng bước được kiện toàn về tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Đặc biệt, các tổ chức đoàn thể đã vận động được các hội viên, đoàn viên và nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ, bảo vệ trị an… đạt được một số kết quả tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng bộ.

2. Đảng bộ thị trấn Đồng Văn lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện xóa đói giảm nghèo (2000- 2015)

Ngày 19 tháng 9 năm 2000, Đảng bộ xã Đồng Văn tổ chức Đại hội Đảng bộ xã Đồng Văn được tổ chức. Đại hội đã đề ra chủ trương trong giai đoạn 2001-2005 là: phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện, gắn phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp với xây dựng Nông thôn mới. Coi trọng giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện xóa đói, giảm nghèo. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Phấn đấu đến năm 2005, thu nhập bình quân đầu người từ 1.800.000 – 2.000.000 đồng/năm; xóa hết hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 19%. Tổng sản lượng quy thóc đạt 1.4000-1.500 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt trên 350 kg/người/năm.

Để thực hiện chủ trương đề ra, Đảng bộ xã huy động mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng thế mạnh của xã đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của Nhà nước, tăng cường lãnh đạo triển khai thực hiện phát triển kinh tế - xã hội với các chương trình, dự án cụ thể; vận động nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đưa các loại cây, con giống mới có năng suất cao vào sản xuất. Công tác khuyến nông, sử dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, đảm bảo gieo trồng đúng kỹ thuật, thời vụ, kết hợp với thâm canh, xen canh gối vụ được tăng cường.

Dưới sự chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ xã, nhân dân đã tích cực chuyển đổi diện tích đất nương sang đất ruộng, đẩy mạnh trồng cỏ chăn nuôi và từng bước hình thành vùng rau xanh chuyên canh cho thu nhập cao. Một số hộ đã chủ động chuyển diện tích đất nông nghiệp sang trồng rau chuyên canh, cho thu nhập từ 15 triệu đồng trở lên. Đặc biệt là việc chuyển đổi hơn 4 ha đất sang trồng hoa hồng, cho thu nhập hơn 30 triệu đồng/năm. Qua đó, từng bước làm chuyển biến nhận thức trong nhân dân về sản xuất hàng hóa. Hàng năm, diện tích, năng suất và sản lượng sản xuất nông nghiệp đều tăng. Tính đến năm 2005, diện tích gieo trồng của xã đạt 656,53 ha (tăng 56,53 ha so năm 2000); tổng sản lượng ngô và lúa đạt 1.861 tấn(tăng 261,3 tấn). Bình quân lương thực đầu người ước đạt 380 kg/người/năm. Diện tích trồng rau đậu đạt 140 ha, năng suất 50 tạ/ha, sản lượng đạt 700 tấn.

Năm 2004, phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện triển khai thực hiện thí điểm trồng măng Bát độ ở 6 xóm trên địa bàn xã với 1.940 cây giống, mô hình giống lúa lai với 1,3 ha, mô hình đậu tương 7.040 m2, mô hình ngô lai… để nhân rộng trên địa bàn xã. Đảng bộ xã tích cực vận động nhân dân thực hiện công tác chăm bón, vun xới các cây trồng theo mô hình thí điểm. Qua quá trình thực hiện, các mô hình đã đem lại kết quả tương đối cao, riêng mô hình trồng măng Bát độ tỷ lệ sống đạt trên 80%.

Trong phát triển chăn nuôi, Đảng bộ xã đã xác định đẩy mạnh tăng số lượng đàn gia súc theo hộ gia đình gắn với việc trồng cỏ đảm bảo nguồn thức ăn. Việc phát triển đàn bò được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn. Diện tích trồng cỏ trên địa bàn xã được mở rộng tới 53,44 ha, trung bình 2 hộ trồng đạt từ 1 ha cỏ trở lên. Bên cạnh đó, các hộ mạnh dạn vay vốn để đầu tư phát triển chăn nuôi đều phát huy có hiệu quả nguồn vốn. Qua đó, số lượng đàn gia súc không ngừng được phát triển: năm 2005 tổng đàn gia súc có 3.135 con (tăng 646 con so với năm 2000). Trong đó, đàn trâu có 337 con, đàn bò có 1.142 con, đàn lợn có 1.216 con, đàn dê có 411 con, đàn ngựa có 29 con, ong mật 384 tổ, gia cầm có 18.000 con. Chăn nuôi được phát triển góp phần giúp nhiều hộ xóa đói giảm nghèo và vươn lên hộ khá, giàu.

Về phát triển lâm nghiệp, các biện pháp khoanh nuôi bảo vệ rừng được đẩy mạnh, đạt 416,08 ha. Các khu rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn và rừng trồng mới được bảo vệ chu đáo, tình trạng chặt phá rừng được ngăn chặn. Trong 5 năm (2001-2005) đã trồng mới 243,9 ha cây thông, cây sa mộc, 5,5 ha cây chè, 5.250 cây ăn quả. Công tác chăm sóc, bảo vệ và phòng, chống cháy rừng được chú trọng. Năm 2005 độ che phủ rừng đạt 22,94%.

Các nghề tiểu thủ công truyền thống, như: nghề rèn, dệt may... tiếp tục phát triển. Đến năm 2005 trên địa bàn xã có 3 lò rèn, 15 máy xay đá, 13 máy khoan, 61 máy sát thóc, ngô và 350 máy thái cỏ, rau lợn. Đặc biệt, Hợp tác xã dệt khăn phụ nữ được thành lập, huy động hàng trăm chị em phụ nữ tham gia sản xuất. 

Công tác xây dựng cơ bản tiếp tục đẩy mạnh với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, với sự đầu tư của Nhà nước và nhân dân đóng góp, nhiều trường học, trụ sở thôn, bản, đường giao thông liên thôn được xây dựng, nâng cấp. Đến năm 2005, 426/712 hộ có điện thắp sáng, 205 hộ tại 16/17 xóm có ti vi. Nhân dân các dân tộc đã đóng góp nguyên vật liệu, ngày công xây dựng trụ sở UBND xã 2 tầng, 1 trường tiểu học 3 tầng, 1 nhà xây 2 tầng, 3 nhà lưu trú cấp 4 cho giáo viên, 7 nhà xây cấp 4 tại 7 điểm trường, 2 nhà cấp 4 tại 2 trụ sở thôn, 20 bể nước tập thể, 916 bể nước hộ gia đình, xây kênh mương xóm Bản Mồ dài 403 mét. Các tuyến đường dân sinh trên địa bàn xã được đầu tư nâng cấp, 2 tuyến đường ống dẫn nước được đưa vào sử dụng đã cung cấp nguồn nước sinh hoạt và sản xuất cho nhân dân các thôn vùng sâu, vùng xa.

Được sự đầu tư của Nhà nước, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ xã trong giai đoạn (2000-2005) nhiều chương trình, dự án có hiệu quả như: Chương trình hạ sơn, xóa đói giảm nghèo cho 9 hộ, mỗi hộ 2 tấn xi măng; hỗ trợ nhân dân chuyển từ đất nương sang đất ruộng được 15,94 ha, cải tạo, khai phá và xếp đá làm nương được 6,06 ha; hỗ trợ 36.500 tấm lợp cho 531 hộ, 2.034 tấm tôn lạnh cho 113 hộ xóa nhà tạm; hỗ trợ 18 hộ nghèo, mỗi hộ 7 triệu đồng… Bên cạnh đó, Đảng bộ xã vận động các hộ dân vay vốn đạt trên 5 tỷ đồng để phát triển trồng trọt, chăn nuôi, kinh doanh. Đặc biệt, 44 hộ có hoàn cảnh khó khăn đã được vay trên 50 triệu đồng đầu tư phát triển chăn nuôi phát huy được hiệu quả, góp phần từng bước ổn định đời sống, xóa đói giảm nghèo… Đến năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn xã giảm từ 32,7% năm 2000 xuống còn 24,7%.

Về giáo dục, hệ thống trường lớp được sắp xếp theo xóm, bản. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên. Hàng năm, duy trì từ 700-850 cháu học sinh trong độ tuổi từ 6-14 đến trường, đạt 85%, đặc biệt đến năm 2005 đạt tỷ lệ 98,9%. Hiện tượng bỏ học giữa kỳ giảm rõ rệt. Học sinh chuyển lớp, chuyển cấp đạt trên 95%. Năm 2004-2005 số giáo viên, học sinh giỏi tăng đáng kể. Xã đã chú trọng mở lớp bán trú dân nuôi với quy mô từ 54 đến 135 cháu. Trong những năm qua, Đại hội khuyến học được tổ chức thành công và xây dựng quỹ khuyến học với số tiền trên 5 triệu đồng.

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” được thực hiện có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa và sinh hoạt tinh thần của nhân dân, góp phần giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Hàng năm, ngày hội đại đoàn kết các dân tộc được tổ chức. Đến năm 2005 đã có 6 làng văn hóa, 669 hộ gia đình được công nhận gia đình văn hóa, 7/23 xóm được xem truyền hình, 205 hộ có ti vi, 236 hộ có đài. Xã thành lập được 1 đội bóng đá, 1 đội bóng chuyền, 23 đội văn nghệ tại 23 xóm.

Về y tế - dân số kế hoạch hóa gia đình. Công tác chăm sóc sức khỏe và  tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, dân số kế hoạch hóa gia đình được thường xuyên làm tốt. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, thuốc phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân được đảm bảo. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho bà mẹ và trẻ em được quan tâm. Trẻ em dưới 36 tháng tuổi uống vitamin A và tiêm phòng đủ mũi đạt 97,23%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 13,22% năm 2000 giảm mạnh còn 3,8% năm 2005. Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đặt vòng tránh thai đạt trên 70%. Tỷ lệ dân số tự nhiên giảm từ 1,9% năm 2001 xuống còn 1,57% năm 2005.

Công tác tuyên truyền chống truyền đạo trái pháp luật được Đảng bộ xã lãnh chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả, đảm bảo theo đúng sự chỉ đạo của Tỉnh ủy theo nội dung Chỉ thị 10-CT/TU. Lực lượng dân quân, công an viên tại cơ sở được tổ chức huấn luyện và luyện tập đạt chỉ tiêu kế hoạch trên giao. Lực lượng dân quân, công an viên thường xuyên tổ chức tuần tra canh gác và giữ gìn trật tự an ninh xóm bản, giải quyết kịp thời mọi vấn đề xảy ra trên địa bàn xã. Hàng năm, công tác tổ chức khám tuyển thanh niên nhập ngũ được thực hiện tốt, đạt 100% chỉ tiêu trên giao.

Trong những năm 2001-2005, Đảng bộ xã Đồng Văn đã tập trung lãnh đạo củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2). Đảng bộ xã đã tăng cường đẩy mạnh công tác củng cố, kiện toàn các chi bộ cơ sở. Trên cơ sở đó, 18 chi bộ cơ sở được thành lập mới, đã xóa xong thôn, bản trắng Chi bộ. Hàng năm, 100% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh. Tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ đạt từ 98,5% trở lên. Công tác nâng cao trình độ văn hóa, bồi dưỡng lý luận chính trị được tăng cường triển khai, trong 5 năm (2001-2005) Đảng bộ xã đã cử 55 đảng viên đi học sơ cấp lý luận chính trị, 9 đảng viên đi học trung cấp chính trị và 5 đảng viên học cấp III bổ túc văn hóa.

Công tác xây dựng và củng cố hoạt động của bộ máy chính quyền được quan tâm. Hoạt động của HĐND, UBND đã từng bước phát huy vai trò, vị trí, chức năng theo luật định. Cuộc bầu cử HĐND các cấp được nghiêm túc tổ chức với tinh thần dân chủ, với 99,9% số cử tri đi bầu cử, bầu ra các chức danh theo đúng luật định. Đại biểu HĐND thực hiện tốt chức năng giám sát trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội và quốc phòng - an ninh. UBND xã từng bước nâng cao năng lực quản lý điều hành trên mọi mặt. Qua đó, góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đảng bộ xã đề ra.

MTTQ và các đoàn thể được kiện toàn về tổ chức cán bộ, không ngừng nâng cao năng lực hoạt động, phát huy vai trò tham mưu và làm cầu nối giữa Đảng với quần chúng. Hàng tháng, các đoàn thể xã duy trì việc báo cáo kết quả hoạt động, nhiệm vụ trọng tâm để cán bộ, hội viên, đoàn viên tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ. Công tác tuyên truyền giáo dục đoàn viên, hội viên và nhân dân các dân tộc đoàn kết thi đua thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng nếp sống văn hóa mới ở khu dân cư được đẩy mạnh.

Ngày 17 tháng 6 năm 2005, Đảng bộ xã tổ chức Đại hội Đại biểu Đảng bộ xã Đồng Văn được tổ chức. Đại hội đã đề ra các chỉ tiêu phấn đấu trong giai đoạn 2005-2010, là: Tổng sản lượng lương thực đạt 2.129 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 401 kg/người/năm. Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 tăng gấp 2,5 lần năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo còn 14,5%. Huy động trẻ đi nhà trẻ và mẫu giáo đạt 75%; Trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%, trong đó có trên 70% biết tiếng phổ thông. Trẻ em 6-14 tuổi đến trường đạt 99,7%; Phấn đấu đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục phổ thông trung học. Hạ tỷ lệ tăng dân số t ự nhiên xuống còn 1,22%. Trẻ em suy dinh dưỡng còn dưới 10%.

Trong giai đoạn 2005-2010, công tác tổ chức hành chính có sự thay đổi lớn. Thực hiện Nghị định số 11/NĐ-CP ngày 31/3/2009 của Chính phủ, thị trấn Đồng Văn được thành lập trên cơ sở xã Đồng Văn với 15 thôn, 7 tổ dân phố.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đã đề ra, trên lĩnh vực phát triển kinh tế nông nghiệp, Đảng bộ thị trấn đã chỉ đạo tích cực thâm canh, tăng vụ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, trong đó là các cây lúa, ngô… theo hướng sản xuất hàng hóa. Cùng với các cây lương thực chính, cây trồng khác có giá trị kinh tế cao, như: khoai tây, đậu tương, bầu, bí, cây cải dầu… được nhân dân tích cực đưa vào sản xuất và bước đầu đã hình thành các vùng rau xanh chuyên canh. Trên cơ sở đó, năm 2010 tổng diện tích đất canh tác trên địa bàn thị trấn đạt 885,7ha. Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 1.713,8 tấn (tăng 2% so với năm 2005). Bình quân lương thực đầu người đạt 394 kg/người/năm (tăng 24 kg so với năm 2005).

Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định. Các biện pháp phòng bệnh, chống rét cho đàn gia súc, gia cầm được chú trọng. Hàng năm, tỷ lệ tiêm phòng đạt 100%. Việc phát triển trồng cỏ chăn nuôi gia súc được đảm bảo, đến năm 2010, diện tích trồng cỏ của thị trấn đạt 55,43ha (tăng 15,3ha so với năm 2005). Số lượng đàn gia súc tăng cao: năm 2009 đàn gia súc có 4.183 con (tăng 1.268 con so với năm 2005). Trong đó, 364 hộ gia đình có từ 1-2 con, 202 hộ có 2-3 con, 21 hộ có từ 6-10 con,  5 hộ có trên 10 con.

Trong phát triển lâm nghiệp, các dự án đầu tư, bảo vệ và phát triển rừng được thực hiện tốt theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Đảng bộ thị trấn đã lãnh chỉ đạo công tác giao đất, giao rừng cho cá nhân và tập thể. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng được chú trọng. Nhận thức của nhân dân về bảo vệ, phòng chống cháy rừng được nâng lên. Trong 5 năm (2006-2010), 100% thôn, tổ với trên 1.300 hộ tự nguyện ký cam kết phòng chống cháy rừng, bảo vệ rừng. Diện tích trồng mới rừng trên địa bàn thị trấn được mở rộng, 224 ha cây thông, sa mộc được trồng mới. Độ che phủ rừng trên địa bàn thị trấn đến năm 2010, đạt 22,94%.

Được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, sự đóng góp công sức của nhân dân, phong trào xây dựng nông thôn mới phát triển mạnh mẽ. Trong những năm 2006-2010, đã hoàn thành xây dựng trụ sở thị trấn gồm 2 tầng, 1 hội trường, 2 nhà lưu trú cán bộ; 1 trường học 2 tầng, 9 nhà điểm trường cấp 4 và 5 trụ sở thôn, tổ. Mở mới 5 km đường bê tông nông thôn tại các thôn Quyết Tiến, Đồng Lực và Tân Tiến, 23,5 km đường dân sinh loại B, 7 tuyến kênh mương với chiều dài 11,5 km. Hàng năm, việc bảo dưỡng, nạo vét các tuyến kênh mương được tổ chức tốt, đáp ứng nhu cầu tưới tiêu, sinh hoạt cho nhân dân. Đến năm 2010, 22/22 thôn, tổ có đường giao thông loại B, 18/22 thôn có đường ô tô đến thôn, 264 nhà tạm được xóa theo chương trình 134, 167 của Chính phủ, 17 hộ dân được di dời ra khỏi vùng có nguy cơ sạt lở cao. Bên cạnh đó, 5 bể nước ăn tập thể, 116 bể nước ăn hộ gia đình đã được xây dựng.

Hoạt động thương mại - dịch vụ có bước phát triển mạnh, cơ bản đáp ứng được nhu cầu trao đổi hàng hóa, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Số hộ dân làm thương mại – dịch vụ trên địa bàn thị trấn được tăng lên: năm 2010 có 300 hộ kinh doanh, thu nhập 8-10 triệu/tháng. Một số hộ thu nhập từ 15-20 triệu/tháng (năm 2005 có 130 hộ kinh doanh, buôn bán đem lại thu nhập 3-5 triệu đồng/tháng). Đến nay, thị trấn có 5 nhà hàng, 5 khách sạn và nhà nghỉ được xây dựng khang trang, đáp ứng nhu cầu dịch vụ ăn, nghỉ của khách tham quan du lịch. Các ngành nghề thủ công truyền thống được duy trì phát triển về số lượng và quy mô, như: mộc, làm khèn, thêu, may mặc… Bên cạnh đó, 21 Hợp tác xã thu hút trên 400 lao động và 4 cơ sở sản xuất gạch bê tông, cát, đá hoạt động có hiệu quả, …

Trong những năm 2005-2010, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội được tăng cường, việc hỗ trợ các hộ gia đình vay vốn phát triển kinh tế được đẩy mạnh, nhằm từng bước thực hiện xóa đói giảm nghèo. Trên 1000 hộ đã được vay vốn phát triển kinh tế với tổng số vốn vay gần 15 tỷ đồng và trên 20 cơ sở, Hợp tác xã đã được vay với trên 30 tỷ đồng. Đặc biệt, đến năm 2010, 230 hộ nghèo được vay 1,6 tỷ đồng để phát triển chăn nuôi. Đồng thời, Đảng bộ thị trấn đã chủ động phối hợp với các cơ quan và Trung tâm dạy nghề huyện tổ chức dạy nghề cho trên 800 người và vận động cán bộ, nhân dân quyên góp được 30 triệu đồng ủng hộ người nghèo. Nhờ đó, nhiều hộ gia đình đã từng bước phát triển kinh tế, thu nhập ổn định. Tuy nhiên, một số hộ chưa thực sự phát huy được hiệu quả việc thực hiện từ các chương trình vay vốn, như: dự án trồng cỏ chăn nuôi trâu, bò hàng hóa; một số nguồn lực về tự nhiên chưa được khai thác… Qua quá trình triển khai thực hiện, tỷ lệ hộ nghèo còn cao chiếm 26,97%.

Việc đầu tư cơ sở vật chất cho các trường, lớp được chú trọng. Trong những năm 2007 – 2009, lớp bán trú dân nuôi cho học sinh trường mầm non, trường Tiểu học được mở. Trung tâm học tập cộng đồng được thành lập, duy trì có kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Hàng năm, trẻ em trong độ tuổi đi học mẫu giáo đạt trung bình 75%; trẻ 6-14 tuổi đến trường đạt 98,5%. Duy trì sĩ số học sinh đạt từ 98,7% đến 99%. Tỷ lệ học sinh chuyển lớp, chuyển cấp đạt trên 99,5%.

Phong trào xây dựng đời sống, gia đình văn hóa và làng văn hóa được tích cực triển khai thực hiện. Trên địa bàn thị trấn có 28 đội văn nghệ quần chúng và văn nghệ dân gian. Trong đó, đội văn nghệ dân gian thường xuyên biểu diễn phục vụ khách du lịch đến tham quan và làm việc tại huyện. Năm 2005, làng văn hóa thôn Thiên Hương đạt khu dân cư xuất sắc được Chủ tịch Nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba và thôn Quyết Tiến được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng Bằng khen. Đến năm 2010, 842 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa, 22/22 thôn, tổ đạt danh hiệu thôn, tổ văn hóa (cấp huyện: 11, cấp tỉnh: 9 thôn, tổ). Hàng năm, thị trấn thu hút khoảng 6.000 lượt khách du lịch, riêng năm 2009 thu hút 12.000 lượt khách vào các điểm chính như: Phố cổ Đồng Văn, Đồn Cao, làng văn hóa Thiên Hương, Quyết Tiến… Bên cạnh đó, 100% thôn, tổ được phủ sóng truyền hình, mạng viễn thông; trên 900 hộ có ti vi và 1000 máy điện thoại cố định và di động, 300 thuê bao sử dụng internet… Những kết quả đạt được là nhờ sự chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ thị trấn cùng với sự nỗ lực của nhân dân trong công tác xây dựng đời sống, gia đình văn hóa và làng văn hóa.

Công tác y tế - dân số kế hoạch hóa gia đình được Đảng bộ thị trấn quan tâm chỉ đạo. Đội ngũ cán bộ y tế thị trấn được tăng cường, có 5 cán bộ y tế, (trong đó 1 bác sỹ, 4 y tá) và 22 y tá thôn, bản. Hàng năm, tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng mở rộng đạt trên 90%, trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 12%. Đến năm 2010, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên trên địa bàn thị trấn giảm còn 1,7%.

Trong 5 năm (2006-2010) Đảng bộ thị trấn đã xây dựng 6 Nghị quyết chuyên đề về lãnh đạo công tác quốc phòng - an ninh. Hàng năm, công tác củng cố, huấn luyện lực lượng dân quân, dự bị động viên, công an viên được thực hiện đảm bảo theo Pháp lệnh. Việc tổ chức khám tuyển thanh niên nhập ngũ đều đạt 100% chỉ tiêu trên giao. Ban chỉ đạo 138, 130 được thường xuyên củng cố, kiện toàn và đã chủ động phòng chống, trấn áp các loại tội phạm, tuyên truyền chống truyền đạo, học đạo trái phép, di cư tự do. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc được xây dựng, phát triển rộng khắp. Các tổ an ninh nhân dân, tổ hòa giải, tổ tuần tra được củng cố, kiện toàn và duy trì thường xuyên công tác giao ban khu vực giáp ranh giữa các xã, thị trấn. Công tác tuần tra, canh gác, quản lý hộ tịch hộ khẩu, tạm trú tạm vắng được chú trọng. Đồng thời, công tác phối hợp với Đồn Biên phòng 165 tổ chức diễn tập tác chiến trị an gắn với phối hợp 3 lực lượng tuần tra, kiểm soát biên giới, giữ gìn an ninh trật tự được thực hiện nghiêm túc, góp phần giải quyết kịp thời các vấn đề xảy ra trên địa bàn.

Công tác xây dựng Đảng được triển khai thực hiện trên cả 3 lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng bộ thị trấn đã thường xuyên tổ chức cho cán bộ, đảng viên được học tập quán triệt đầy đủ các Nghị quyết của Đảng, cấp ủy cấp trên, chính sách của Nhà nước. Trong những năm 2005-2010, công tác tổ chức không ngừng được củng cố, 4 Chi bộ mới được thành lập, kết nạp mới được 96 đảng viên, nâng tổng số Chi bộ lên 27 với 261 đảng viên. Chất lượng sinh hoạt của các Chi bộ dưới Đảng ủy từng bước được đổi mới. Hàng năm, 85% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, 15% chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ và 85% đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Hoạt động của bộ máy chính quyền không ngừng được quan tâm, củng cố. HĐND thị trấn đã quán triệt và cụ thể hóa đầy đủ các Nghị quyết của Đảng thành Nghị quyết của HĐND cấp mình. Các kỳ họp HĐND được từng bước nâng cao chất lượng. Chức năng kiểm tra, giám sát của HĐND được tăng cường và thực hiện theo đúng Luật định, đã chủ động phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tổ chức 13 kỳ họp. Đại biểu HĐND đã thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp xúc cử tri cả trước và sau các kỳ họp để truyền đạt Nghị quyết và tiếp thu, phản ánh kiến nghị của cử tri với UBND thị trấn và các ngành, chức năng xem xét, giải quyết kịp thời. Đồng thời, UBND thị trấn đã chú trọng việc đổi mới lề lối làm việc, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. UBND thị trấn đã bám sát vào Nghị quyết của Đảng ủy, HĐND thị trấn để cụ thể hóa thành các Nghị quyết, chỉ tiêu cụ thể. Hàng năm, xây dựng kế hoạch và giao chỉ tiêu, giải quyết tốt các vấn đề chính sách xã hội, quy chế dân chủ ở cơ sở, tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, thực hiện đề án 30 của Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính cấp xã, phường, thị trấn, duy trì phòng giao dịch một cửa, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân đến giải quyết công việc.

Đảng bộ xã tích cực lãnh chỉ đạo công tác củng cố, kiện toàn, đổi mới về nội dung và hình thức hoạt động của MTTQ và các tổ chức đoàn thể quần chúng. Công tác tuyên truyền giáo dục đoàn viên, hội viên và nhân dân được đẩy mạnh. MTTQ và các tổ chức đoàn thể quần chúng đã bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, xây dựng chương trình công tác, ký kết quy chế phối hợp với UBND và các ngành trong công tác tuyên truyền vận động, tích cực vận động nhân dân thi đua lao động sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xóa nhà tạm, xây dựng nông thôn mới… Trong những năm 2005-2010, Đại hội MTTQ, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Công đoàn cơ sở Thị trấn được tổ chức thành công, bám sát sự chỉ đạo và Nghị quyết của Đảng bộ thị trấn.

Ngày 24 tháng 4 năm 2010, Đại hội Đảng bộ thị trấn nhiệm kỳ 2010-2015 được tổ chức. Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2005-2010 và đề ra mục tiêu tổng quát nhiệm kỳ 2010-2015 là: Nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng bộ; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, phát huy nội lực, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng lợi thế, tạo ra bước đột phát về phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp, dịch vụ thương mại, ngành nghề và du lịch; nâng cao đời sống nhân dân về mọi mặt, đảm bảo an ninh lương thực, xóa nghèo bền vững; nâng cao chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; tăng cường quốc phòng - an ninh; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện.

Đại hội đã đề ra các mục tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ 2010-2015 là: Tổng sản lượng lương thực đạt 1.981,59 tấn. Thu nhập bình quân đầu người đạt 7,5 triệu đồng/người/năm. Đến năm 2015 không còn nhà tạm; giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 16,7%, nâng tỷ lệ hộ khá, giàu lên 25%. 100% các thôn, các hộ gia đình được sử dụng điện lưới quốc gia. 100% các thôn có đường ô tô đến thôn (bản) và nâng cấp, mở rộng 100% các tuyến đường dân sinh. 100% các tổ dân phố, thôn bản có nhà văn hóa kiêm trụ sở thôn. Huy động trẻ dưới 3 tuổi đi nhà trẻ đạt 15% trở lên; trẻ 3-5 tuổi đi mẫu giáo đạt 87% trở lên; Trẻ 6-14 tuổi đến trường đạt 99%. Thị trấn đạt chuẩn Quốc gia về y tế. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 1,4%, không còn hiện tượng sinh con thứ 3 và hiện tượng tảo hôn. Số chi bộ đạt trong sạch vững mạnh hàng năm đạt 85% trở lên, không có chi bộ yếu kém. Đảng bộ Thị trấn đạt trong sạch vững mạnh…

Bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị trấn nhiệm kỳ 2010-2015, trên lĩnh vực sản xuất nông - lâm nghiệp Đảng bộ thị trấn đã tập trung lãnh đạo đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng tăng năng suất. Việc phát triển các cây lương thực chính như lúa, ngô được đẩy mạnh. Diện tích, năng suất và sản lượng việc phát triển cây trồng không ngừng được nâng cao. Năm 2014, diện tích ngô tăng 139,1 ha, năng suất ngô bình quân đạt 46,5 tạ/ha (tăng 11,43 tạ/ha so với năm 2010); diện tích lúa đạt 165 ha (tăng 85 ha so với năm 2010), năng suất lúa bình quân đạt 59,75 tạ/ha (tăng 4,05 tạ/ha so với năm 2010). Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 2.274,7 tấn (tăng 517,9 tấn so với năm 2010). Bình quân lương thực đầu người đạt 456kg/người/năm. Ngoài ra, các cây trồng khác như: đậu tương, khoai tây, dong riềng, cây lanh, tam giác mạch, khoai lang… phát triển ổn định.

Trong phát triển chăn nuôi, các chương trình hỗ trợ hộ nghèo vay vốn không lãi, thụ tinh nhân tạo, sửa chữa chuồng trại được tích cực triển khai đạt hiệu quả. 22 cán bộ thú y tại 22 thôn, bản được thường xuyên tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ về kỹ thuật chăn nuôi, chế biến thức ăn, vỗ béo trâu, bò, tích cực thực hiện công tác hướng dẫn nhân dân kỹ thuật chăn nuôi. Trong những năm 2010-2014, 412 hộ được vay vốn ưu đãi phát triển chăn nuôi. Chương trình trồng cỏ, nuôi ong lấy mật, mô hình mỗi hộ gia đình nuôi từ 2 con trâu, bò và 600 khóm cỏ đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần nâng cao thu nhập cho nhân dân. Đến năm 2014, tổng đàn đàn gia súc trên địa bàn thị trấn có 5.305 con. Trong đó, đàn trâu, bò có 1.715 con (tăng 243 con so năm 2010), đàn lợn có 2.245 con (tăng 734 con so năm 2010), đàn dê có 1.330 con, (tăng 160 con so năm 2010), đàn gia cầm có 10.256 con, đàn ong có 890 tổ... Trung bình hàng năm, đàn gia súc, gia cầm tăng trưởng từ 10% đến 20%.

Đảng bộ thị trấn đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về Xây dựng nông thôn mới đến năm 2020, trong đó thôn Thiên Hương được chọn làm điểm. Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, công tác xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn xã đã đạt được những kết quả nhất định. Ban quản lý cấp thị trấn và các ban phát triển thôn đã sớm được thành lập, kiện toàn, đã tích cực chỉ đạo và hướng dẫn nhân dân thực hiện những chỉ tiêu dựa trên nội lực của nhân dân, như: làm hố vệ sinh, xây tường ngăn cách giữa chuồng trại chăn nuôi với nhà ở, vận động con em đến trường đạt chỉ tiêu, thực hiện kế hoạch hoá gia đình, xoá nhà tạm, xoá đói giảm nghèo… Đồng thời, công tác tuyên truyền đến với nhân dân về các tiêu chí xây dựng Nông thôn mới được tổ chức tốt. Với những nỗ lực của Đảng bộ thị trấn và nhân dân, đến năm 2014, thị trấn Đồng Văn đã hoàn thành 7/19 tiêu chí Nông thôn mới, đạt 18/49 nội dung trong bộ tiêu chí.

Công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng được triển khai thực hiện có hiệu quả. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ, phòng, chống cháy rừng được chú trọng. 100% các thôn xây dựng được quy ước và ký cam kết bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng. Trong những năm 2010-2014, trên địa bàn thị trấn có 262 ha cây lâu năm (trong đó 87,9 ha cây ăn quả, 185ha đậu tương, 365,2 ha rau đậu các loại…), trồng mới 72 ha rừng (trong đó, 32 ha rừng tập trung, 40 ha rừng phân tán), chăm sóc 39,9 ha, khoanh nuôi phục hồi 561,5 ha và bảo vệ 322 ha rừng và độ che phủ rừng đạt 27% (tăng 1,26% so với năm 2010)... Bên cạnh đó, việc giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình chăm sóc và bảo vệ rừng đã cơ bản hoàn thành.

Trên lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp chủ yếu tập trung vào khai thác đá, sản xuất gạch bê tông, vật liệu xây dựng. Năm 2014, trên địa bàn thị trấn có 4 cơ sở sản xuất sản xuất gạch bê tông, vật liệu xây dựng, 1 Hợp tác xã khai thác đá làm đồ mỹ nghệ với nhiều sản phẩn được du khách ưa thích, 1 xưởng sửa chữa ô tô, 7 cửa hàng sửa chữa xe máy, 6 cơ sở hàn xì...

Hoạt động dịch vụ - du lịch có bước phát triển mạnh, cơ bản đáp ứng được nhu cầu trao đổi hàng hóa, phục vụ khách du lịch. Nhiều tổ chức, cá nhân đã đầu tư vốn xây dựng, cải tạo, nâng cấp nhà hàng, nhà nghỉ, khách sạn. Đến năm 2015, thị trấn có 1 khách sạn 3 sao, 3 khách sạn 1 sao, 11 nhà nghỉ, 23 cơ sở lưu trú bình dân với trên 500 phòng ngủ.. Bên cạnh đó, một số ngành nghề thủ công truyền thống, như: đan, thêu, dệt… được khuyến khích phát triển. Các lớp dạy nghề thủ công truyền thống được tổ chức cho 120 lao động. Mặc dù kinh tế có bước phát triển nhưng đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, đến năm 2014, thị trấn còn 294 hộ nghèo chiếm 19,53%.

Công tác giáo dục được tích cực triển khai thực hiện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ thị trấn, công tác phối hợp giữa gia đình, nhà trường, chính quyền được triển khai thực hiện tốt. Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho học sinh được thực hiện đầy đủ. Hoạt động của hội khuyến học, trung tâm học tập cộng đồng được duy trì thường xuyên. Hàng năm, trẻ em trong độ tuổi đến trường được duy trì đạt 100%. Tỷ lệ học sinh chuyển lớp, chuyển cấp đạt trên 92%. Trong giai đoạn 2010 – 2015, trường Tiểu học thị trấn được tách thành 2 trường tiểu học A và tiểu học B. Chất lượng giáo dục của các trường không ngừng được nâng cao, năm 2012 trường Tiểu học A, năm 2014 trường THCS đạt chuẩn Quốc gia mức độ I, trường mầm non thị trấn đạt chuẩn phổ cập cho học sinh 5 tuổi.

Phong trào xây dựng đời sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng văn hóa được thực hiện có hiệu quả. Đảng bộ thị trấn đã tích cực lãnh chỉ đạo công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống văn hóa dân tộc. Các đội văn nghệ quần chúng ở 22 thôn, tổ dân phố, trong đó 1 đội văn nghệ xung kích thị trấn được tiếp tục duy trì và hoạt động hiệu quả, thường xuyên biểu diễn phục vụ các đoàn khách đến tham quan và làm việc tại huyện. Năm 2014, 863 hộ  trên địa bàn thị trấn được công nhận đạt danh hiệu gia đình văn hoá (trong đó, cấp tỉnh 37, cấp huyện 529, cấp thị trấn 297) và 15/22 làng được công nhận danh hiệu làng văn hoá (cấp tỉnh 6 làng, cấp huyện 9 làng).

Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được triển khai đồng bộ và hiệu quả. Trạm y tế Thị trấn được công nhận đạt chuẩn y tế Quốc gia. Công tác phòng, chống các dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm thực hiện tốt. Hàng năm, tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm và uống đầy đủ các loại vác xin phòng bệnh đạt từ 95% trở lên. Trong những năm 2010-2014, tổng số lượt bệnh nhân đến khám và phát thuốc điều trị là trên 10.000 lượt người. Năm 2014 tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng về cân nặng còn 21%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,27% (giảm 0,18% so năm 2010).

Đảng uỷ đã ban hành 6 Nghị quyết chuyên đề về công tác quốc phòng, an ninh. Hàng năm, lực lượng dân quân tham gia huấn luyện đạt trên 70%. Công tác huấn luyện, diễn tập đều đạt loại khá và giỏi. Lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên được thường xuyên rà soát, củng cố theo Luật định. Lực lượng dân quân, công an, biên phòng luôn duy trì nghiêm túc chế chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, tổ chức tuần tra, kiểm soát đường biên, mốc giới. Ban chỉ đạo phòng chống tội phạm và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được kiện toàn. Việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 36/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục  xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới tiếp tục đạt hiệu quả. Hàng năm, công tác khám tuyển thanh niên nhập ngũ đều đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch cấp trên giao.

Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ thị trấn đã thường xuyên quan tâm thực hiện công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên truyền chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, phong trào thi đua của địa phương. Việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay và thực hiện 8 lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Hà Giang được triển khai nghiêm túc, đã tác động tích cực đến đổi mới tác phong, lề lối làm việc của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Hàng năm, 100% cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ đã xây dựng bản đăng ký cam kết thực hiện từ 2 - 3 việc cụ thể, thiết thực trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Những năm 2010-2014, công tác củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đảng được tập trung triển khai, đã tách và thành lập mới 2 Chi bộ. Hàng năm, trên 80% Chi bộ Đảng đạt trong sạch vững mạnh, 85% đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Công tác tổ chức cán bộ được quan tâm. Đảng ủy thị trấn đã cử 17 đồng chí đi học văn hoá và bồi dưỡng về trình độ lý luận chính trị và tổ chức kết nạp 56 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ là 361 đảng viên. Công tác kiểm tra, giám sát được triển khai thực hiện nghiêm túc. Đảng ủy đã tổ chức 7 đợt kiểm tra, giám sát đối với các chi bộ, đảng viên. Qua đó, phát hiện 12 trường hợp vi phạm, xử lý kỷ luật 9 đồng chí (Khai trừ 2 đảng viên, khiển trách 2 đảng viên, xoá tên 5 đảng viên).

Bộ máy chính quyền thị trấn không ngừng được củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động. Đề án nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND cấp xã được HĐND thị trấn tích cực thực hiện, qua đó chất lượng, hiệu quả hoạt động không ngừng được nâng cao, thực hiện theo đúng luật. Công tác tiếp xúc, giải quyết và đề nghị giải quyết những kiến nghị của cử tri theo thẩm quyền có nhiều đổi mới, mang lại hiệu quả thiết thực. UBND thị trấn đã bám sát vào Nghị quyết của Đảng uỷ, HĐND thị trấn để cụ thể hoá thành chương trình hành động bằng các mục tiêu, chỉ tiêu. Công tác cải cách thủ tục hành chính, đổi mới lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành được chú trọng. Hàng năm, đều xây dựng kế hoạch và giao chỉ tiêu cho các thôn, tổ thực hiện. Qua đó, nhiều vấn đề về chính sách xã hội, thực hiện dân chủ ở cở sở, tiếp dân và giải quyết thỏa đáng đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân được giải quyết kịp thời.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể được củng cố, kiện toàn, có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức hoạt động; Đã bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, xây dựng chương trình công tác, ký kết quy chế phối hợp với UBND trong công tác tuyên truyền vận động; Chủ động đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực thi đua lao động sản xuất, xoá đói giảm nghèo.

Thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị và văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Đảng bộ các cấp về tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Đảng ủy thị trấn đã khẩn trương lãnh chỉ đạo 29 chi bộ trực thuộc trên địa bàn thị trấn tổ chức Đại hội chi bộ cơ sở.

Ngày 14/5/2015 Đại hội Đảng bộ thị trấn nhiệm kỳ 2015-2020 được triệu tập, 117 đại biểu thay mặt cho 361 đảng viên dự Đại hội. Chủ đề của Đại hội là:“Đoàn kết, dân chủ, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng xây dựng Thị trấn Đồng Văn phát triển”.

Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2010-2015 và đề ra mục tiêu tổng quát nhiệm kỳ 2015-2020 là: Nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phát huy nội lực; khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng lợi thế của địa phương, tạo ra bước đột phá về phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp, phát triển mạnh  Du lịch – Dịch vụ - Thương mại. Đẩy mạnh chuyển dịch sản xuất nông, lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, chất lượng, giá trị kinh tế cao. Nâng cao đời sống nhân dân về mọi mặt, xoá nghèo bền vững; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo chăm sóc sức khoẻ nhân dân; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội; giữ gìn, phát triển bản sắc văn hoá dân tộc. Tăng cường củng cố Quốc phòng - An ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới Quốc gia, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện.

Để thực hiện những mục tiêu đã đề ra, Đại hội đã đề ra 3 chương trình trọng tâm, 2 nội dung đột phá, 16 chỉ tiêu, 5 nhiệm vụ và giải pháp thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020.

Với những kết quả đã đạt được trong nhiệm kỳ 2010-2015 và gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Sản xuất nông - lâm nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, du lịch phát triển và ổn định. Cơ sở vật chất không ngừng được củng cố và chất lượng công tác giáo dục, y tế, văn hóa được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được củng cố vững chắc; ổn định chính trị, trật tự xã hội địa bàn được giữ vững. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Với những thành tích đã đạt được, Đảng bộ và nhân dân thị trấn đã góp phần tích cực vào thành tích chung của huyện Đồng Văn và giữ vững vai trò trung tâm, động lực phát triển của huyện trong thời kỳ hội nhập, phát triển. Phát huy những kết quả đó, Đảng bộ và nhân dân thị trấn Đồng Văn tin tưởng và quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị trấn trong thời gian tới. 

(Còn nữa)


Tin khác